Với sự đa dạng về chủng loại, trà ở Việt Nam có thể được chia thành ba loại chính: trà xanh, trà mạn và trà ướp hương. Hãy cùng chúng tôi du ngoạn vào thế giới phong phú của trà truyền thống Việt Nam!
Với lịch sử trồng chè hơn 2000 năm, Việt Nam là một trong những quốc gia sản xuất chè lớn và lâu đời nhất trên thế giới. Mặc dù lịch sử uống trà của Việt Nam không được ghi chép rõ ràng như lịch sử của người Trung Quốc hay Nhật Bản, nhưng việc uống trà chiếm một vai trò thiết yếu trong văn hóa Việt Nam, cả trong quá khứ và hiện tại.
Trà xanh
Trà xanh luôn là thứ được nhắc đến đầu tiên mỗi khi nói về trà Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 20, trà xanh đã được trồng đại trà khắp Bắc Bộ và Trung Bộ, dần trở thành một biểu tượng trong đời sống thường nhật của người Việt, của những miền quê thanh bình.
Chè xanh rất thân thiện với thổ nhưỡng và khí hậu Việt Nam, không chỉ ở đồng bằng mà cả vùng cao, được tìm thấy phổ biến, có khi ngay trong vườn sau nhà của các gia đình. Với thân cao hơn và kích thước lá to hơn so với các loại cây chè khác, chè xanh có thể thưởng thức ở dạng tươi mà không cần phải làm héo hay sao; mọi người có thể thưởng thức ngay sau khi hái lá từ cây. Ngâm và đun sôi lá trà trong nước nóng, sau mười lăm phút, trà xanh của bạn đã sẵn sàng để phục vụ.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, vì người dân ở khu vực nông thôn kiếm sống chủ yếu bằng nghề nông. Chính đặc tính thanh mát đã khiến trà xanh trở thành thức uống hoàn hảo cho những ngày hè oi bức ở xứ nhiệt đới. Bên cạnh việc giải nhiệt từ bên trong, trà xanh còn giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể, tăng cường sinh lực.
Không có gì ngạc nhiên khi chè xanh đã được coi là một phần không thể thiếu trong cuộc sống đời thường của người nông dân Việt Nam. Dễ dàng trong việc chuẩn bị và phục vụ, trà xanh được uống ở khắp mọi nơi; trong thời gian nghỉ ngơi của ngày nông dưới bóng cây, hoặc trên hiên nhà sau những giờ làm việc mệt mỏi. Hình ảnh mọi người quây quần bên chiếc sạp nhỏ gần cổng làng, vừa trò chuyện vui vẻ vừa uống trà xanh đựng trong những chiếc bát sứ là hình ảnh tiêu biểu miêu tả nếp sống của người dân quê Việt Nam.
Đôi khi, người Việt Nam cũng uống “nước vối” (làm từ một loại cây ở miền Bắc Việt Nam) để thay thế cho trà xanh. Sau khi được ủ trong sọt phủ rơm và sấy khô dưới sức nóng ngoài trời, nụ và lá cây vối đã sấy khô sẽ được phục vụ giống như lá trà xanh.
Ngày nay, nhận thấy niềm đam mê trà xanh của người Việt và những tác dụng tích cực của đồ uống này đối với sức khỏe, một số nhà sản xuất đã biến loại đồ uống dân gian này thành đồ uống đóng hộp, mang trà xanh đến gần hơn với người dân thành thị cũng như người nước ngoài.
Trà Mạn
Khác với trà xanh nói trên, giống trà dùng để pha Trà mạn được trồng thành bụi khi trưởng thành cao gần 1m, ở vùng đất trũng hoặc những vùng địa hình phức tạp như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ; hay các vùng cao nguyên Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum.
Những búp và lá chè tươi sau khi được hái cẩn thận sẽ được phơi khô tự nhiên trước khi làm héo. Sau đó, người ta sẽ rang nụ và lá trong chảo với mức nhiệt độ cố định cho đến khi nụ bắt đầu cuộn lại và khô đi. Màu xanh lúc này biến thành màu đen. Nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng thực ra đó là một quá trình rất phức tạp, phụ thuộc nhiều vào tay nghề của người thợ để đạt được yêu cầu về chất lượng. Nụ phải còn nguyên hình dạng, không có mẩu vụn và giữ được mùi thơm lâu.
Trà mạn cũng có thể được làm từ Chè Shan Tuyết. Chè Shan tuyết là giống chè quý hiếm chỉ có ở các tỉnh vùng sâu vùng xa phía Bắc Việt Nam, đặc biệt là ở Hà Giang. Những cây chè hoang dã cổ thụ này được biết là có chiều cao gần 15 mét và đường kính lên tới 2 mét. Người ta phải trèo lên cây trà để hái búp, và người ta nói rằng vào thời xa xưa, những con khỉ được huấn luyện đã được sử dụng để thu hái lá trà từ những nơi khó tiếp cận. Búp và lá non của chè Shan tuyết được bao phủ bởi một lớp lông tuyết mỏng nên có tên gọi là chè Shan tuyết. Được canh tác hữu cơ và thu hoạch tự nhiên, chè Shan tuyết được bán với giá cao nhờ những đặc tính tuyệt vời.
Không quá phổ biến và thông dụng như trà xanh, Trà mạn được phục vụ cầu kỳ với kỹ năng riêng của nghệ nhân trà, với một ấm trà thích hợp bởi mỗi loại gốm sứ có thể mang lại một hương vị hoàn toàn mới cho nước trà, và đặc biệt, với một vị thanh thanh.
Trà ướp hương
Giống như nhiều vùng sản xuất chè khác, người Việt Nam đã khám phá ra một phương pháp đặc biệt để làm cho “trà mạn” thơm hơn: trộn với hoa và thảo mộc! Nếu Earl Grey hay trà Chai nổi tiếng quốc tế đã làm nên tên tuổi, thì trà thơm Việt Nam rất đơn giản nhưng độc đáo, kết hợp hương vị của chủ yếu là đất và thực vật bản địa.
Hương hoa thoang thoảng hòa quyện với vị đắng dịu của trà tạo nên nét độc đáo về hương, vị, sắc của tách trà thơm hay “Trà hương”. Mỗi loại “trà mạn” sẽ tương ứng với một loại hoa cụ thể: trà mạn với hoa cúc, đặc biệt được ưa chuộng là trà mạn với hoa nhài và hoa sen.
Trà sen thơm - có thể coi là một kỳ tích tiêu biểu của văn hóa thưởng trà Việt Nam. Làm trà sen không chỉ tốn thời gian mà còn công phu, và bản thân “trà sen” chứa đựng lòng nhân ái, sự kính trọng và niềm tin triết lý của người Việt Nam.
“Trà mạn” dùng để làm “trà sen” không thể sấy khô hoàn toàn sau khi rang. Búp và lá chè sẽ được ủ trong vò đất, đậy bằng lá chuối và bảo quản trong thời gian gần 2 năm để chè bớt đắng và tăng khả năng ngấm hương thơm của chè. Để có một kg trà sen, cần 800-1000 bông sen được hái trước bình minh. Trà được pha từ năm đến sáu lần liên tục cho đến khi tất cả các lá trà thấm đẫm hương sen thanh khiết.
Bảo An/ KTĐU