Chứng kiến sự thay đổi về các chiến thuật phổ biến tại mỗi kỳ EURO, có thể thấy giải vô địch châu Âu chính là tấm gương phản chiếu những xu hướng chơi bóng tân tiến nhất của lục địa già.
Chứng kiến sự thay đổi về các chiến thuật phổ biến tại mỗi kỳ EURO, có thể thấy giải vô địch châu Âu chính là tấm gương phản chiếu những xu hướng chơi bóng tân tiến nhất của lục địa già.
Tại kỳ EURO đầu tiên (1960), sơ đồ 2-3-5 vẫn phổ biến nhưng chỉ bốn năm sau, đã bị thay thế bởi những sơ đồ thiên về phòng ngự, có sự tổ chức phức tạp hơn như 4-3-3, 4-4-2 hay 4-2-4. Vai trò của các vị trí cũng dần thay đổi. Italia lên ngôi tại EURO 1968 với công lao không nhỏ của Giacinto Facchetti, một hậu vệ cánh dám lên công không kém các tiền đạo thay vì chỉ biết khư khư ở phần sân nhà như trước. Hình mẫu của Facchetti đã tạo đà cho sự ra đời của vị trí libero của Franz Beckenbauer tại EURO 1972.
Xavi, bộ não lối chơi tiqui-taca - Ảnh Getty
Sau này, không có nhiều thay đổi về sơ đồ chiến thuật nhưng lại có những cải cách lớn về mặt tổ chức lối chơi. Theo phân tích của Tiểu ban kỹ thuật của UEFA, các trận đấu ngày một phức tạp hơn với những hệ thống phòng ngự chặt chẽ, rất khó bị phá vỡ. Tại EURO 1996, xu hướng phổ biến nhất là sơ đồ 3-5-2 với sự lên ngôi của hàng hậu vệ ba người khóa chặt các tiền đạo đối phương, những tiền vệ cánh hoạt động rộng và liên tục, một tiền vệ thủ lo thu hồi bóng và chống phản công. Do sự xuất hiện của luật cấm chuyền về, các thủ môn cũng trở thành một cầu thủ đá bóng thực sự chứ không chỉ cần biết dùng đôi tay.
Tại EURO 2000, sơ đồ hình kim cương với một tiền vệ thủ, hai tiền vệ trung tâm thông thường và một hộ công cũng dần phổ biến. Xu hướng sử dụng chỉ một tiền đạo cắm cũng là một lựa chọn được ưa thích. Nhờ giảm một chân sút, các HLV có thể bổ sung thêm một tiền vệ trung tâm để tăng thêm chất thép cho hệ thống phòng ngự. Những thay đổi này buộc các cầu thủ phải dần hoàn thiện bản thân, cả về mặt kỹ chiến thuật lẫn thể lực, để có thể thích ứng được với những nhiệm vụ mới cũng như tốc độ trận đấu, diễn ra ngày một chóng mặt. Bốn năm sau, những yêu cầu về kỹ thuật và tốc độ lại được đẩy lên cao thêm một nấc nữa và những đôi cánh trở thành hàng “hot” ở giải đấu này.
Tại EURO 2008, lối chơi tiqui-taca lạ lẫm đã bất ngờ lên ngôi. Giai đoạn này, những tiền vệ khổng lồ “không phổi” đang được ưa chuộng nhưng tiqui-taca của người Tây Ban Nha lại sử dụng hàng tiền vệ “tí hon” với ba trụ cột gồm Xavi Hernandez, Andres Iniesta hay “tấm khiên” Marcos Senna đều cao không quá 1m77. Với những “chú lùn” như vậy, lối chơi tiqui-taca không lấy việc phá đối thủ làm đầu mà tập trung vào những đường chuyền đan lát liên tục, chính xác đến từng milimet, để kiểm soát được thế trận. Từ nền tảng của ông Aragones, tiqui-taca đã được HLV Pep Guardiola rồi Vicente del Bosque phát triển lên thành một đỉnh cao của bóng đá thế giới.
T.K.A
theo TT&VH