Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo (XKG). Năm 2011, XKG đạt 7,105 triệu tấn - cao nhất từ trước đến nay. Bài viết nhìn lại thành tích trong hơn chục năm gần đây và gợi mở hướng đi ngành những năm tới.
Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo (XKG). Năm 2011, XKG đạt 7,105 triệu tấn - cao nhất từ trước đến nay. Bài viết nhìn lại thành tích trong hơn chục năm gần đây và gợi mở hướng đi ngành những năm tới.
Sản xuất lúa ở ĐBSCL trong những năm qua đã có sự thay đổi diện tích. Trong giai đoạn 2000 - 2010, diện tích lúa ở vùng này thu hẹp 6.000ha. Riêng trong giai đoạn 2000 - 2005, diện tích gieo trồng lúa giảm 119.500ha, sau đó phục hồi lại trong giai đoạn 2005 - 2010 tăng 113.500ha. Sự tăng, giảm diện tích theo các giai đoạn chủ yếu do giá cả lúa bấp bênh nên diện tích tăng, giảm cục bộ trong từng vụ; sự không ổn định diện tích lúa thu đông và sự tăng, giảm diện tích của vụ lúa mùa (trong đó có vụ lúa trên nền đất nuôi tôm sú).
Bước tiến năng suất, mở rộng thị trường
Năng suất lúa đã và đang được cải thiện một cách đáng kể, năm 2000, năng suất mỗi vụ bình quân 4,23 tấn/ha, đến năm 2010 đạt 5,43 tấn/ha (tăng gần 1,2 tấn/ha). Thời kỳ 2001-2010, bình quân xuất khẩu hơn 4,2 triệu tấn gạo/năm, kim ngạch trên 1 tỷ USD/năm, tăng 14% về lượng và 15% về giá trị so với thời kỳ trước. XKG đạt kỷ lục năm 2011 với 7,105 triệu tấn, trị giá FOB 3,507 tỷ USD, trị giá CIF 3,651 tỷ USD.
Bản đồ XKG Việt Nam có chiều hướng mở rộng sang khu vực châu Phi. Định hướng trong những năm tới tiếp tục mở rộng thị trường nhưng vẫn chủ yếu là thị trường châu Á. Khu vực này có tiềm năng lớn vì việc tiến tới tự túc lương thực của các nước còn rất khó khăn như Philippines và Indonesia, ngoài ra sự thay đổi thời tiết không thuận lợi cho trồng lúa ở Ấn Độ và Trung Quốc – 2 quốc gia có dân số lớn nhất, ảnh hưởng rất lớn đến an ninh lương thực của các nước.
Thành công của sản xuất và XKG của Việt Nam trong hai thập niên qua do nhiều yếu tố tác động, trong đó “đổi mới” chính sách, mở rộng hệ thống thủy lợi khai thác lúa nước tưới, hướng canh tác vào thâm canh cao, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật trong sản xuất lúa và việc mở rộng thị trường xuất khẩu gạo đóng vai trò quan trọng.
Hướng đến kỷ lục mới
Sản xuất lúa theo hướng thương mại cần thực hiện chuyên canh trên quy mô tương đối lớn để bảo đảm chất lượng được nâng cao và duy trì ổn định, bảo đảm khả năng giao một lượng sản phẩm lớn trong thời hạn ngắn, theo kịp yêu cầu của thị trường. Để đạt được những tiến bộ rõ rệt trong thời gian ngắn, cần có những dự án được kết hợp thành những chương trình mục tiêu, thực hiện một cách kiên trì và nhất quán.
Động lực thị trường có thể sẽ giúp người nông dân tiếp cận nhanh hơn với các phương pháp và tác phong canh tác mới, từ bỏ cách làm ăn cũ, tư duy và tác phong cũ không còn thích hợp.
Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa:
Về nguồn tài nguyên và các điều kiện tự nhiên cho phép chúng ta có thể trồng được 3 vụ lúa/năm trên diện rộng như vùng ĐBSCL, thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc sản.
Về chi phí sản xuất lúa có thể giảm khi tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, tiết kiệm nước, bón phân đạm theo bảng so màu lá, cơ giới hóa trong nhiều khâu canh tác lúa.
Chất lượng lúa có thể gia tăng khi canh tác theo hướng GAP, đồng nhất về giống canh tác trong từng vùng, từng khu quy hoạch. Có sự chỉ đạo và liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp - cơ quan nông nghiệp – nông dân.
Theo Danviet