Lịch sử trà Việt Nam đã có hơn 4000 năm canh tác. Từ thời các Vua Hùng, người Việt Nam đã biết trồng và sử dụng trà như một thức uống. Trải qua nhiều thế hệ trồng chè, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia sản xuất chè hàng đầu thế giới.
1. Lịch sử trà Việt Nam bắt đầu từ thời Hùng Vương
Có rất nhiều tranh cãi về những nơi người ta đã tìm thấy và trồng cây chè trên thế giới. Tuy nhiên, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và Việt Nam được chứng minh là nguồn gốc của chè trên thế giới . Theo sử sách, truyện kể thì từ thời Hùng Vương, người Việt Nam đã có thói quen uống trà.
Khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy dấu vết hóa thạch của lá và cây chè ở Phú Thọ. Ở Suối Giàng (Văn Chấn, huyện Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái) có một rừng chè hoang hàng chục nghìn cây. Trong rừng chè, người dân phát hiện 3 cây chè cổ thụ cao từ 6 đến 8 mét. Ở Lạng Sơn, người ta cũng đã tìm thấy một rừng chè hoang có cây cao tới 18m. Cây trà sơ khai được coi là đã tồn tại từ 4000 đến 5000 năm trước.
2. Lịch sử trà Việt dưới 1000 năm đô hộ Trung Hoa
Theo các tài liệu Hán Nôm về Nông nghiệp Việt Nam và Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn – 1773 (Bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam), người Việt Nam giữ thói quen uống trà. Trải qua nhiều thế hệ phát triển nông nghiệp, họ đã để lại hai vùng chè lớn:
- Vùng chè tươi của hộ gia đình người Kinh ven sông cung cấp chè tươi, chè búp…
- Vùng chè rừng của đồng bào dân tộc thiểu số (Dao, Mông, Tày) ở miền núi phía Bắc cung cấp chè Mán, chè Chi.
3. Lịch sử trà Việt thời Pháp thuộc (1882 – 1945)
Giai đoạn 1882 – 1945 ghi dấu mốc phát triển đặc biệt trong lịch sử trà Việt Nam. Sau khi chiếm đóng Đông Dương, người Pháp đã phát triển ngay quy trình sản xuất chè. Trà trở thành mặt hàng xuất khẩu hiếm hoi sang châu Âu.
Sau đây là một số nét chính về thời kỳ này:
- Năm 1890 , Công ty Thương mại Chaffanjon đã cho trồng đồn điền chè đầu tiên rộng 60 ha tại Tình Cương, tỉnh Phú Thọ, ngày nay vẫn mang tên Chư Chế.
- Năm 1918 , Trạm Nghiên cứu Nông nghiệp Phú Thọ được thành lập. Năm 1925, nhà máy chè đầu tiên ở Đông dương xây dựng tại Phú Hộ, với thiết bị chế biến chè đen của Anh và máy phát điện nồi hơi nước. Mục đích quan trọng nhất của trạm là chuyên nghiên cứu và phát triển chè. Nội dung nghiên cứ chính giai đoạn này là cây chè, đã tiếp cận nghiên cứu cây cà phê, một số cây có dầu và cây sơn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.. Người Pháp xây dựng nhà máy chè cao 3 tầng làm chè bằng phương pháp làm héo tự nhiên, sử dụng cối của Anh… Họ cũng áp dụng các kỹ thuật nông nghiệp và công nghệ chế biến tiên tiến của Indonesia và Srilanka.
- Sau tháng 8 năm 1945 , thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam, để lại hai vùng chè tập trung. Đó là Tây Nguyên và Trung du và miền núi phía Bắc. Hai vùng này có tổng diện tích chè là 13.505 ha . Năng lực sản xuất lên đến 6.000 tấn chè khô hàng năm .
4. Lịch sử trà Việt Nam thời bao cấp (1945 -1986)
Trong 30 năm chiến tranh giành độc lập (1945 – 1975), các cơ sở nghiên cứu khoa học về chè ở hai miền Nam Bắc Việt Nam bị tàn phá nặng nề. Các trang trại, cơ sở chế biến bị thiệt hại nặng nề, không sản xuất liên tục.
Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, nhân dân Việt Nam đã xây dựng lại nhiều nhà máy và trang trại. Hầu hết các sản phẩm được xuất khẩu hoàn toàn sang Liên Xô.
5. Trà Việt từ năm 1986
Sau năm 1986, thực hiện công cuộc đổi mới trên mặt trận nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có sự lột xác rõ nét hơn trên tất cả các lĩnh vực. Lịch sử trà Việt Nam cũng đã sang một trang mới.
Trước năm 1990, Việt Nam có thị trường xuất khẩu chè lớn và ổn định là Liên Xô cũ, Iraq, Anh và một số nước Đông Âu. Sau năm 1990, thị trường khu vực này giảm xuống còn khoảng 15.000 - 200.000 tấn/năm , kim ngạch xuất khẩu 20 - 25 triệu USD .
Hiện nay, thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam đã mở rộng sang các nước như Nhật Bản, Hồng Kông, Ai Cập, Bỉ, Mỹ... Sản lượng xuất khẩu trong 10 năm (1989-1998) đạt 186.000 tấn, đặc biệt năm 1998 đạt sản lượng xuất khẩu cao 33.500 tấn , đạt kim ngạch trên 50 triệu USD .
Hiện chè Việt Nam đứng thứ 7 về sản lượng chè toàn cầu. Sản phẩm chè của Việt Nam hiện đã được xuất khẩu sang 74 quốc gia và vùng lãnh thổ . Theo thống kê của Hiệp hội Chè Việt Nam, cả nước có 34 tỉnh trồng chè. Tổng diện tích 123 nghìn ha, năng suất bình quân gần 95 tạ/ha, sản lượng 1,02 triệu tấn chè búp tươi.
Trong thời đại ngày nay, yêu cầu về chất lượng chè cao hơn xưa rất nhiều, sản phẩm chè phải có 5 đặc tính sau:
- Trà phải có một hương vị độc đáo.
- Trà phải có lợi cho sức khỏe.
- Sự đa dạng
- Bao bì đẹp và hấp dẫn.
- Trà rất thuận tiện để pha và uống.
Đến nay, các hoạt động nghiên cứu phát triển các loại chè đặc sản mới nhằm nâng cao giá trị sản phẩm chè Việt Nam là hướng đi cơ bản để phát triển từ các loại chè truyền thống nhằm đa dạng hóa sản phẩm. Đây cũng là xu hướng phát triển sản phẩm chè trong hiện tại và tương lai.
Bảo Anh
Theo Kinh tế và Đồ uống