Với biến đổi khí hậu, trong đó có mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero), thì những yêu cầu của người tiêu dùng đối với nông sản sẽ có sự thay đổi, đặc biệt tập trung vào yêu tố chất lượng, an toàn thực phẩm, trách nhiệm đối với môi trường và xã hội.
Tình hình nông nghiệp xanh trên thế giới và Việt Nam
Biến đổi khí hậu đang đặt ra những thá- ch thức lớn cho ngành nông nghiệp, trong đó có Việt Nam. Để thích ứng với biến đổi khí hậu, ngành nông nghiệp cần chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp xanh, bền vững.
Nông nghiệp xanh là mô hình sản xuất nông nghiệp dựa trên các nguyên tắc bảo vệ môi trường, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực. Mô hình này đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm và trách nhiệm đối với môi trường.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang tích cực triển khai các chính sách và biện pháp hỗ trợ phát triển nông nghiệp xanh. Trên thế giới, nông nghiệp hữu cơ đã góp phần không nhỏ đối với môi trường, trong đó có giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Diện tích nông nghiệp hữu cơ của thế giới cũng đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm qua: Năm 2016, đạt 57,8 triệu hecta, chiếm 1,2% tổng diện tích đất nông nghiệp với giá trị sản phẩm hữu cơ khoảng 89,7 tỷ USD. Trong vòng 10 năm (2006 - 2016), diện tích đất nông nghiệp hữu cơ của thế giới tăng 150%. Có 178 nước sản xuất nông nghiệp hữu cơ với 2,7 triệu người thực hành sản xuất theo phương pháp hữu cơ, trong đó có 87 nước có quy định pháp luật quản lý sản phẩm hữu cơ.
Thống kê của Viện Nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ (FIBL) và IFOAM cho thấy, năm 2021 có hơn 71 triệu hecta canh tác hữu cơ, tương đương khoảng 1,5% tổng diện tích canh tác. Một số quốc gia như: Mỹ, Úc và Liên minh châu Âu (EU) có tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ rất nhanh. Và đến nay, trên thế giới có 186 quốc gia phát triển dòng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Trong đó, 73% diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ thế giới thuộc về 10 nước dẫn đầu. Úc có diện tích đất nông nghiệp hữu cơ nhiều nhất với 27,1 triệu hecta, trong đó 97% là những đồng cỏ chăn nuôi rộng lớn; kế đến là Argentina (3,0 triệu hecta); Trung Quốc (2,3 triệu hecta); Mỹ (2 triệu hecta)
Tại Việt Nam, nhu cầu về nông sản xanh ngày càng tăng cao. Điều này được thể hiện qua sự gia tăng của các thị trường bán lẻ thực phẩm sạch, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản xanh.
Nhu cầu của thị trường đối với nông nghiệp xanh
Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến các sản phẩm nông sản an toàn, thân thiện môi trường. Người tiêu dùng sẽ ưu tiên lựa chọn những sản phẩm nông sản được sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững, thân thiện với môi trường.
Theo một nghiên cứu của Công ty NielsenIQ, 55% người tiêu dùng Việt Nam coi yếu tố bền vững, thân thiện môi trường là rất quan trọng khi mua sắm. Điều này cho thấy, nhu cầu tiêu dùng nông sản xanh đang ngày càng tăng cao.
Họ sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho những sản phẩm nông sản được sản xuất bởi các doanh nghiệp có trách nhiệm với xã hội, như doanh nghiệp trả lương cao cho người lao động, hỗ trợ cộng đồng địa phương,...
Các thị trường bán lẻ thực phẩm sạch cũng đang phát triển mạnh mẽ. Theo thống kê của Bộ Công Thương, năm 2022, tổng doanh thu của các chuỗi siêu thị, cửa hàng tiện lợi đạt hơn 1.500 nghìn tỉ đồng, tăng 15% so với năm trước.
Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản xanh cũng ngày càng phát triển. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2022, xuất khẩu nông sản đạt hơn 50 tỉ USD, tăng 12% so với năm trước.
Các doanh nghiệp hướng tới nông nghiệp xanh sẽ có thêm nhiều cơ hội như: Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Do nhu cầu của người tiêu dùng đối với nông sản xanh ngày càng tăng cao, đặc biệt là ở các thị trường xuất khẩu. Nông sản xanh được đánh giá cao về chất lượng và an toàn, giúp doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, nông nghiệp xanh giúp giảm thiểu sử dụng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, từ đó giúp giảm chi phí sản xuất.
Thách thức của người sản xuất trong việc sản xuất nông nghiệp xanh
Để đáp ứng nhu cầu này, các doanh nghiệp sản xuất nông sản cần chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp xanh. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này không hề dễ dàng, do gặp phải nhiều khó khăn, như:
- Chi phí đầu tư ban đầu cao: Để chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp xanh, nông dân cần đầu tư thêm về vốn, kỹ thuật, công nghệ. Tuy nhiên, nguồn lực tài chính của nhiều nông dân còn hạn chế.
- Kỹ thuật sản xuất phức tạp: Sản xuất nông nghiệp xanh đòi hỏi người sản xuất phải có kỹ thuật cao, nắm vững các quy trình kỹ thuật.
- Thiếu thị trường tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ nông sản xanh còn hạn chế, khiến người sản xuất gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
- Trình độ nhận thức của nông dân còn hạn chế: Nhiều nông dân vẫn chưa hiểu rõ về lợi ích của nông nghiệp xanh, chưa có ý thức trong việc sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững.
- Thiếu liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ: Việc thiếu liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ khiến nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường, tìm đầu ra cho sản phẩm.
Giải pháp
Để giải quyết những khó khăn này, cần có sự chung tay của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người nông dân.
- Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh.
- Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản cần đầu tư nghiên cứu, phát triển các sản phẩm nông sản xanh chất lượng cao.
- Người sản xuất nông nghiệp cần nâng cao nhận thức, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để sản xuất nông nghiệp xanh.
Nông nghiệp xanh là xu hướng tất yếu của ngành nông nghiệp trong bối cảnh hiện nay. Để thúc đẩy nông nghiệp xanh, cần có sự chung tay của các cấp chính quyền, doanh nghiệp và nông dân.
Bảo An
Theo Kinh tế và đồ uống