Theo nhìn nhận của NHNN, trong những năm qua, hoạt động của các bàn đổi ngoại tệ cá nhân đặc biệt là bàn đổi tiền Nhân dân tệ đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Sắp có quy định quản lý các ‘ngân hàng di động’
NHNN nhìn nhận, các bàn đổi cá nhân tham gia vào hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu như một “ngân hàng di động”, có doanh số thu đổi tiền mặt lớn, chi phối tỷ giá CNY/VND; thực hiện hoạt động cho vay VND, ngoại tệ với lãi suất cao bất hợp pháp, từ đó hình thành chợ tiền tự do lấn át thị trường chính thức, ảnh hưởng đến an ninh tiền tệ khu vực biên giới.
Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến cuối năm 2016, cả nước có 456 tổ chức kinh tế làm đại lý đổi ngoại tệ (không bao gồm tiền của nước có chung biên giới) cho các tổ chức tín dụng (TCTD) được phép.
Các tổ chức làm đại lý thu đổi ngoại tệ cho TCTD chỉ được thu mua ngoại tệ từ các cá nhân có ngoại tệ tiền mặt, sau đó bán lại số ngoại tệ này cho TCTD ủy quyền sau khi giữ lại một lượng ngoại tệ tiền mặt tồn quỹ. Doanh số thu đổi ngoại tệ đạt trung bình khoảng 200 triệu USD/năm đáp ứng nhu cầu đổi ngoại tệ của các cá nhân, chủ yếu là khách du lịch.
Theo nhìn nhận của NHNN, trong những năm qua, hoạt động của các bàn đổi ngoại tệ cá nhân đặc biệt là bàn đổi tiền Nhân dân tệ đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Thứ nhất, hoạt động của các bàn đổi ngoại tệ cá nhân bị biến tướng. Theo quy định, bàn đổi tiền cá nhân được thực hiện mua, bán ngoại tệ tiền mặt, vì vậy trong quá trình triển khai thực hiện, hoạt động của nhiều bàn đổi ngoại tệ cá nhân đã bị biến tướng.
Các bàn đổi cá nhân tham gia vào hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu như một “ngân hàng di động”, có doanh số thu đổi tiền mặt lớn, chi phối tỷ giá CNY/VND; thực hiện hoạt động cho vay VND, ngoại tệ với lãi suất cao bất hợp pháp, từ đó hình thành chợ tiền tự do lấn át thị trường chính thức, gây khó khăn cho công tác quản lý ngoại hối, ảnh hưởng đến an ninh tiền tệ trên địa bàn các khu vực biên giới.
NHNN nhìn nhận, các bàn đổi cá nhân tham gia vào hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu như một “ngân hàng di động”, hình thành chợ tiền tự do lấn át thị trường chính thức, gây khó khăn cho công tác quản lý ngoại hối
Thứ hai, hồ sơ, thủ tục cấp phép thành lập bàn đổi ngoại tệ cá nhân quá đơn giản. Theo đó, cá nhân là cư dân biên giới có địa điểm đặt bàn đổi ngoại tệ tại khu vực biên giới và số vốn bằng tiền mặt tối thiểu 50 triệu VND được NHNN chi nhánh tỉnh biên giới xem xét cấp phép thành lập bàn đổi ngoại tệ cá nhân. Từ đó dẫn đến tình trạng các bàn đổi ngoại tệ cá nhân thành lập tràn lan, gây khó khăn cho cơ quan quản lý, ảnh hưởng đến công tác điều hành chính sách tiền tệ, ngoại hối.
Thứ ba, việc quản lý các bàn đổi ngoại tệ cá nhân còn gặp nhiều khó khăn: Mặc dù đã có quy định về thu hồi Giấy phép đối với trường hợp vi phạm của bàn đổi ngoại tệ cá nhân nhưng do đối tượng áp dụng là cá nhân nên việc xử lý các trường hợp sai phạm gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo vai trò quản lý hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ tư, hiện nay không còn cơ sở pháp lý để thành lập bàn đổi ngoại tệ cá nhân.
Hiện nay, quy định hiện hành không phân biệt điều kiện đối với hoạt động đại lý đổi tiền của nước có chung biên giới với hoạt động đại lý đổi ngoại tệ khác. Tuy nhiên, do khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu có những đặc thù riêng biệt, đồng thời hoạt động sử dụng đồng tiền của nước có chung biên giới với Việt Nam ngoài việc thực hiện theo các quy định chung về quản lý ngoại hối còn thực hiện theo quy định tại các Hiệp định giữa Việt Nam và các nước có chung biên giới.
Vì vậy, theo NHNN hoạt động đại lý đổi tiền của nước có chung biên giới cũng cần có những điều kiện, quy định riêng nhằm vừa đảm bảo kiểm soát chặt chẽ đồng thời vẫn phát huy hiệu quả sử dụng tiền của nước có chung biên giới.
Cụ thể, về địa điểm đặt đại lý đổi ngoại tệ. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 89/2016/NĐ-CP, đại lý đổi ngoại tệ phải đặt tại một trong các địa điểm như cơ sở lưu trú du lịch từ ba sao trở lên, cửa khẩu quốc tế, khu vui chơi giải trí có thưởng dành cho người nước ngoài, trung tâm thương mại...
NHNN cho rằng, do cơ sở hạ tầng tại khu vực biên giới còn chưa phát triển, đồng thời căn cứ cơ chế quản lý đặc thù nêu trên để quy định địa điểm đặt đại lý đổi tiền của nước có chung biên giới linh hoạt hơn so với địa điểm đặt đại lý đổi ngoại tệ khác. Do đó, cần quy định tổ chức kinh tế có nhu cầu làm đại lý đổi tiền của nước có chung biên giới phải có trụ sở chính hoặc chi nhánh đặt tại khu vực biên giới, khu kinh tế cửa khẩu để thực hiện hoạt động thu đổi ngoại tệ.
Từ tình hình trên, NHNN kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định các điều kiện khác nhau đối với hai đối tượng này nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế, tạo cơ sở pháp lý đối với công tác kiểm tra, kiểm soát và quản lý nhà nước đối với việc sử dụng tiền của nước có chung biên giới.
Ngoài ra, để tăng tính hiệu quả trong công tác quản lý của cơ quan quản lý nhà nước, các nội dung khác có liên quan đến hoạt động đổi tiền của nước có chung biên giới (như nguyên tắc thu đổi tiền của nước có chung biên giới, tồn quỹ ngoại tệ tiền mặt, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan,...) sẽ được quy định tại văn bản hướng dẫn của NHNN.
Thanh Long
Theo Vietnamfinance