Đây là hội nghị có ý nghĩa quan trọng, khẳng định tình đoàn kết, sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân hai nước nói chung, của Quảng Trị với Savannakhet và Salavan nói riêng.
Những ngày cuối tháng 5, cơn nóng oi bức của mùa hè dần bị xua tan đi, trời Đông Hà như xanh trong, dịu lại. Đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta đón tiếp đoàn lãnh đạo Bộ Quốc phòng nước CHDCND Lào, lãnh đạo tỉnh Savannakhet, tỉnh Salavan và đại diện các bản làng kết nghĩa của hai tỉnh trên với các bản làng của huyện Hướng Hóa, Đakrông (Quảng Trị) đến dự hội nghị sơ kết 5 năm kết nghĩa bản- bản đối diện hai bên biên giới được tổ chức ở thành phố Đông Hà.
Đây là hội nghị có ý nghĩa quan trọng, khẳng định tình đoàn kết, sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân hai nước nói chung, của Quảng Trị với Savannakhet và Salavan nói riêng. Từ năm 2005, lãnh đạo Quảng Trị và hai tỉnh Savannakhet, Salavan đã thống nhất phát động phong trào, tổ chức ký kết nghĩa bản- bản đối diện hai bên biên giới. Lúc đầu hai bên chọn cặp bản Ka Tăng (thị trấn Lao Bảo, Hướng Hóa), bản Đen Sa Vẳn (huyện Sê Pôn, Savannakhet) để làm điểm ký kết, đó là vào tháng 4/2005. Tiếp đến là ký kết nghĩa giữa bản La Lay (xã A Ngo, huyện Đakrông) với bản La Lay A Xói (cụm bản II, huyện Sa Muồi, tỉnh Salavan), đến tháng 9/2010 toàn bộ 23/23 cặp bản đối diện hai bên biên giới của Quảng Trị với Savannakhet và Salavan đã hoàn thành việc tổ chức ký kết nghĩa.
Dân bản Loa, xã Ba Tầng, Hướng Hóa và dân bản Rạ, Sa Muồi (Lào) mở con đường nối hai bản. Ảnh: PHAN PHƯỚC TRUNG
Bà con các bản, làng hai bên biên giới từ lâu đã có mối quan hệ họ hàng, huyết thống, gắn bó với nhau, chia sẻ bao niềm vui, nỗi buồn. Do đó việc ký kết nghĩa càng thắt chặt tình đoàn kết, đáp ứng được lòng mong đợi của người dân hai bên biên giới.
Với tình cảm xóm giềng, chia ngọt sẻ bùi, những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Trị luôn hướng về những người bạn thân thiết, trong điều kiện ngân sách còn eo hẹp nhưng hàng năm tỉnh đều dành nhiều tỉ đồng để hỗ trợ xây dựng trường học, trạm xá, cung cấp cây con giống, tiến hành điều tra nông nghiệp vùng biên giới, giúp khảo sát các dự án trồng rừng, cây công nghiệp như cà phê, cao su, cây tiêu, sắn... Hàng năm đoàn lãnh đạo cao cấp hai tỉnh thường tổ chức hội đàm, trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những vướng mắc nảy sinh; giúp bạn đào tạo cán bộ quân sự, chính trị, hành chính và nhiều giáo viên ở các cấp học.
Bộ đội Biên phòng Quảng Trị giúp thực hiện 2 dự án xây dựng trường học ở Mường Noòng và huyện Sa Muồi; phối hợp với Hội LHPN tỉnh tổ chức các lớp dạy tiếng Việt cho phụ nữ Lào. Các ngành Quân sự, Hải quan, Công an cùng với chính quyền các xã biên giới làm tốt công tác đối ngoại và giúp nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo. Ngành Y tế Quảng Trị, Bộ đội Biên phòng cử nhiều đoàn y, bác sĩ sang khám bệnh, điều trị, cấp thuốc cho những người bệnh ở các bản làng xa xôi.
Có nơi như ở bản Cheng, xã Hướng Phùng mỗi khi người dân nhận được gạo trợ cấp của nhà nước, mỗi gia đình thường dành 2-3 kg gạo để mang sang giúp bản kết nghĩa. Những lúc bị thiên tai, hoạn nạn, chính quyền và các ban, ngành của tỉnh Quảng Trị đều có mặt kịp thời để động viên, an ủi, giúp bạn vượt qua khó khăn. Tính từ năm 2005 đến nay, các bản phía Quảng Trị đã giúp bản đối diện của Lào hơn 50.000 giống sắn K94, 17.000 cây keo tai tượng, tràm hoa vàng, 125 kg giống ngô lai, hơn 500 con gia súc, gia cầm.
Các tỉnh Savannakhet, Salavan cũng đã có nhiều dự án, công trình đầu tư xây dựng hệ thống giao thông, trường học, trạm xá, điện nước, từng bước cải thiện đời sống nhân dân các cụm xã, thôn, bản giáp biên giới với Quảng Trị. Ngoài ra, nhờ thực hiện kết nghĩa bản- bản mà tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới có nhiều chuyển biến tích cực.
Người dân có ý thức hơn trong việc bảo vệ đường biên cột mốc, chống lại các loại tội phạm. Các hành vi vi phạm pháp luật về biên giới được nhân dân phát hiện, thông tin sớm cho ngành chức năng. Bà con ở biên giới đã cung cấp cho Bộ đội Biên phòng hơn 300 thông tin có giá trị, qua đó bắt giữ 126 đối tượng mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, thu giữ hơn 200.000 viên ma túy tổng hợp và hàng chục ký cần sa, cùng với nhiều ô tô, xe máy, súng quân dụng. Ngoài ra còn bắt giữ nhiều đối tượng buôn bán phụ nữ qua biên giới, tổ chức đưa người trốn đi nước ngoài trái phép...
Việc tổ chức gặp mặt, sơ kết 5 năm kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới lần này đúng vào thời điểm mà nhân dân hai nước long trọng kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1962- 2012); 35 năm ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác Việt- Lào (1977-2012) nên càng có ý nghĩa sâu sắc.
Phát biểu tại cuộc gặp mặt này, đồng chí Khăm Bun Đuông Păn Nha, Ủy viên BCH Trung ương Đảng NDCM Lào, Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng tỉnh Salavan; đồng chí Cay Xỏn Khun Lạt Su Văn Na Vong, Phó Bí thư, Phó tỉnh trưởng tỉnh Savannakhet đều đánh giá cao những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện kết nghĩa bản- bản giữa tỉnh Salavan, Savannakhet và tỉnh Quảng Trị, kết quả đó góp phần vun đắp tình hữu nghị, truyền thống đoàn kết gắn bó, tương thân tương trợ của nhân dân hai nước.
Ông trưởng bản Đen Sa Vẳn, huyện Sê Pôn thì cho rằng: “Thực tế qua 5 năm kết nghĩa bản- bản đã giúp nhân dân hai bản nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm, tích cực tham gia công tác bảo vệ nguyên trạng đường biên, cột mốc; không làm hư hỏng, xê dịch mốc quốc giới, dòng chảy sông suối và các biển báo, vành đai biên giới. Ngoài ra còn giúp đỡ nhau trong phát triển kinh tế, tuyên truyền phòng chống dịch bệnh, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, cùng nhau đi tham quan, học tập các mô hình phát triển kinh tế và danh lam thắng cảnh của đất nước Lào tươi đẹp”.
Thiếu tướng Vũ Hiệp Bình, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh BĐBP phát biểu tại hội nghị đã khẳng định: Hoạt động kết nghĩa giữa các bản của Quảng Trị và các bản của tỉnh Salavan, Savannakhet là hoạt động có ý nghĩa, là minh chứng sinh động cho mối quan hệ gắn bó, đoàn kết giữa nhân dân hai nước, thể hiện sức sống kỳ diệu cả trong chiến đấu và trong thời kỳ xây dựng đất nước. Đây là cách làm mới, đạt hiệu quả thiết thực, từ đó có thể nhân rộng ra nhiều địa phương khác trong cả nước có chung biên giới với Trung Quốc, Campuchia, Lào.
Có thể nói rằng ít có được tình cảm nào bền chặt, gắn bó, thân thiện, thủy chung như tình bạn Việt-Lào. Tình cảm đó ngày càng tươi thắm, sáng trong, dạt dào như hoa chăm pa, như dòng nước Hồng Hà, Cửu Long. Và những thế hệ con cháu chúng ta sau này nguyện giữ gìn, phát triển để tình cảm ấy mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững như nguyện ước của hai dân tộc.
HOÀNG NAM BẰNG
theo Quangtri