Việt Nam là một trong những quốc gia hứng chịu tác động bất lợi lớn nhất từ biến đổi khí hậu một cách mạnh mẽ và đang phải đối diện nhiều thách thức đe dọa an ninh nguồn nước. Vì vậy, công tác quản lý nguồn nước, xây dựng quy hoạch sử dụng nước, đi đôi với thu hút đầu tư cho hạ tầng thủy lợi... là những vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hiện nay, ông Nguyễn Văn Tỉnh - Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi (TCTL) bày tỏ trong cuộc trao đổi với phóng viên mới đây.
PV: Thưa ông, nhiệm vụ phát triển thủy lợi và đảm bảo cung cấp nước sạch nông thôn trong bối cảnh hiện nay đang gặp phải những khó khăn và thuận lợi gì?
Ông Nguyễn Văn Tỉnh - Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi (TCTL): Công tác thủy lợi ngày càng đóng vai trò quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các hệ thống thủy lợi hiện nay đang đảm nhận việc cấp, thoát nước cho sản xuất nông nghiệp, dân sinh; góp phần bảo đảm nước cung cấp công nghiệp, du lịch; tham gia phòng, chống thiên tai, bảo vệ an toàn tài sản và tính mạng của người dân. Với yêu cầu ngày càng cao của nhiều ngành kinh tế, các công tác thủy lợi đang phải chuyển dần sang phục vụ đa mục tiêu, thay cho việc chỉ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trước đây, nhiệm vụ phát triển thủy lợi đang gặp một số khó khăn, thách thức:
Hạ tầng thủy lợi ở nước ta được xây dựng từ lâu, qua nhiều giai đoạn, trong đó có công trình được xây dựng từ những năm 70 của thế kỷ trước, lại thiếu kinh phí bảo trì, sửa chữa thường xuyên nên số lượng công trình xuống cấp và hư hỏng hàng năm khá lớn. Nhiệm vụ công trình theo thiết kế trước đây chủ yếu tập trung cho sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, phục vụ tưới cho cây lúa, nên khó thay đổi công năng đáp ứng phục vụ đa mục tiêu. Một số hệ thống thủy lợi chưa đồng bộ, phần lớn hệ thống kênh mương nội đồng chưa được hoàn thiện, số lượng đập, hồ chứa nước đã xuống cấp, hư hỏng còn khá lớn. Đến nay, vẫn còn các công trình trọng điểm trong danh mục ưu tiên chưa được bố trí nguồn vốn và phát triển kết cấu hạ tầng thủy lợi vẫn chủ yếu phụ thuộc ngân sách nhà nước.
Công tác dự báo nguồn nước, kiểm soát chất lượng nước, cảnh báo rủi ro về nguồn nước còn nhiều bất cập; thiếu công cụ dự báo, cảnh báo về sự cố môi trường nước; đô thị hóa, công nghiệp hóa đã tạo ra sức ép lớn lên công tác thủy lợi. Trong khi đó, tác động từ biến đổi khí hậu, với diễn biến mưa lũ, ngập lụt, úng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn... diễn ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và dân sinh. Gần 70% dân số có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các loại hình thiên tai, ô nhiễm liên quan đến nước. Điển hình như năm 2019, cùng thời điểm, khi khu vực Nam Trung bộ xảy ra hạn hán nghiêm trọng, thì miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ lũ lụt, ngập úng gây thiệt hại lớn. Năm 2020, diễn biến bất thường của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn xảy ra tại vùng ĐBSCL, ĐBSH, Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, đô thị hóa, công nghiệp hóa đã tạo sức ép lớn lên công tác thủy lợi, làm suy giảm nguồn nước, sụt lún đất, lấn chiếm không gian cho tiêu thoát nước; sạt lở bờ sông, bờ biển. Mức độ ô nhiễm nguồn nước trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn, các khu tập trung dân cư rất nghiêm trọng. Đặc biệt, việc các quốc gia thượng nguồn sông quốc tế triển khai đầu tư xây dựng, hoặc có kế hoạch xây dựng các hồ thủy điện, công trình lấy nước, công trình chuyển nước liên lưu vực sông, dự báo sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến vùng hạ du tại Việt Nam, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng.
Việc đảm bảo cung cấp nước sạch nông thôn hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Trước hết là điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Chỉ trong vòng 05 năm qua chúng ta đã chứng kiến 02 đợt hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn khốc liệt vào năm 2014 - 2016 ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long; đợt năm 2019 - 2020 tại vùng ĐBSCL và trận lũ lụt lịch sử tại vùng miền Trung năm 2020, đã ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng 200.000 hộ thiếu nước sinh hoạt và khoảng 450 công trình cấp nước tập trung bị hư hỏng, phải ngừng cấp nước.
Bên cạnh đó, số lượng công trình cấp nước tập trung nông thôn lớn nhưng tỷ lệ hoạt động kém hiệu quả cao, theo thống kê đến nay, có khoảng 16.000 công trình cấp nước cho khoảng 28.5 triệu người (chiếm 44%), trong đó khoảng 31% công trình hoạt động kém hiệu quả và không hoạt động; chủ yếu công trình có quy mô nhỏ có công suất <50m3/ngày đêm, ảnh hưởng khoảng 800 nghìn người và chủ yếu do cộng đồng quản lý, vận hành. Đây là một bài toán khó trong việc xây dựng lộ trình để thanh lý, chuyển đổi và thay mới công trình phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Tỷ lệ cấp nước hộ gia đình cao, hiện có khoảng 36 triệu người dân nông thôn sử dụng cấp nước hộ gia đình (chiếm 56%), đây là đối tượng dễ bị tác động của biến đổi khí hậu và việc đảm bảo cấp nước trong thời gian hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, ngập lụt, úng… gặp nhiều khó khăn.
Chất lượng nguồn nước cấp không đồng đều, thiếu hụt vào mùa khô, không khai thác được vào thời kỳ xâm nhập mặn… đã tác động không nhỏ đến vận hành bền vững công trình cấp nước tập trung.
Việc phát triển hệ thống thủy lợi đảm bảo đa mục tiêu, bao gồm có cấp nước sinh hoạt nông thôn là phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, việc chuyển đổi nguồn nước thô cho các công trình cấp nước tập trung cần có lộ trình và yêu cầu kinh phí cao do nhiều công trình còn lạc hậu.
Bên cạnh những khó khăn, tồn tại, nhiệm vụ phát triển thủy lợi và bảo đảm cấp nước sạch nông thôn đang có những cơ hội, điều kiện thuận lợi, đó là:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thủy lợi nói riêng và ngành nước nói chung tương đối hoàn chỉnh tạo hành lang pháp lý thuận lợi công tác quản lý, hoạt động thủy lợi.
Đến nay, các vùng kinh tế, các lưu vực sông, hệ thống thủy lợi lớn liên tỉnh đã được lập, phê duyệt quy hoạch giúp định hướng phát triển thủy lợi có trọng tâm, trọng điểm đáp ứng kịp thời nhiệm vụ phục vụ cấp nước, thoát nước cho sản xuất, dân sinh, phòng, chống thiên tai trong các giai đoạn phát triển
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự chung tay góp sức của người dân chúng ta đã xây dựng được kết cấu hạ tầng thủy lợi tương đối đồng bộ, với trên 900 hệ thống thuỷ lợi có quy mô diện tích phục vụ từ 200 ha trở lên. Tổng số công trình thủy lợi của cả nước hiện có 86.202 công trình, gồm: 7.342 đập, hồ chứa thủy lợi có dung tích trữ từ 0,05 triệu m3 và có chiều cao đập từ 05 m trở lên; 19.416 trạm bơm; 27.754 cống; 15.975 đập dâng; 16.057 đập tạm; 291.013 km kênh mương các loại, 16.573 công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung cấp nước sinh hoạt nông thôn. Các hệ thống thủy lợi hiện bảo đảm tưới ổn định cho 7,3 triệu ha đất gieo trồng lúa, 1,5 triệu ha rau màu, cây công nghiệp, cấp khoảng 6 tỷ m3 nước phục vụ sinh hoạt và công nghiệp, ngăn mặn cho 0,87 triệu ha, cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha, tiêu cho 1,72 triệu ha đất nông nghiệp, góp phần quan trọng cho nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá cây trồng, nâng cao hiệu suất sử dụng đất, tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, góp phần xóa đói, giảm nghèo tại các vùng nông thôn. Ngoài ra, hệ thống thủy lợi hiện nay kết hợp phục vụ đa mục tiêu như kết hợp khai thác phục vụ phát điện, giao thông thủy, bảo vệ môi trường…
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về thủy lợi từ trung ương đến địa phương không ngừng được củng cố, hoàn thiện để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quản lý của ngành. Cả nước hiện có 90 tổ chức khai thác công trình thủy lợi là doanh nghiệp, trong đó: có 6 đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; khoảng 17.000 tổ chức thủy lợi cơ sở bao gồm các loại hình Hợp tác xã, tổ hợp tác và ban quản lý thủy nông quản lý các công trình thủy lợi nhỏ, hệ thống nội đồng. Thủy lợi đóng góp tích cực trong việc áp dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước trên các vùng miền, tăng hiệu quả sử dụng nước, tiết kiệm sức lao động, góp phần đưa sản lượng lúa đạt trên 43 triệu tấn, 1,3 triệu tấn cà phê nhân, 1,5 triệu tấn chè, 16 triệu tấn rau màu, trên 8,5 triệu tấn cây ăn quả, 7,56 triệu tấn thủy sản.
Về đảm bảo cung cấp nước sạch nông thôn cũng đã và đang được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong việc kịp thời ban hành các chính sách hỗ trợ vùng khó khăn về nguồn nước và định hướng các chủ trương đầu tư xây dựng công trình ứng phó hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, được ưu tiên nguồn kinh phí từ Chương trình MTQG xây dựng NTM, Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững để đầu tư nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới các công trình cấp nước tập trung.
Trong dự kiến kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, việc đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung nông thôn, cấp nước hộ gia đình cho khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng hạn hán, lũ, lụt, ngập úng cũng được ưu tiên thực hiện. Bên cạnh đó, các nguồn lực hợp tác quốc tế được tập trung trong việc hỗ trợ thực hiện các dự án về biến đổi khí hậu, điển hình như Dự án nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn bền vững ứng phó biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2025 vay vốn WB cho vùng Trung Bộ, Đông Nam Bộ và ĐBSCL.
PV: Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú cả về lượng mưa, nguồn nước mặt trong các hệ thống sông, hồ và nguồn nước ngầm dưới đất. Tuy nhiên, phân bố nguồn nước không đồng đều trong lãnh thổ đang dẫn đến tình trạng căng thẳng về nước theo mùa với sự bất cân đối giữa cung, cầu và có xu hướng gia tăng làm cho công tác điều phối, phân bổ nguồn nước cho các mục đích phát triển rất khó khăn. Vậy Tổng cục Thủy lợi có đề xuất gì về tình trạng trên?
Ông Nguyễn Văn Tỉnh - Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi (TCTL): Xét về mặt tổng lượng nước mặt, Việt Nam được coi là quốc gia có tài nguyên nước dồi dào, khoảng 840 tỷ m3, nhưng nếu xét trên tổng lượng nước sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam thì chỉ khoảng 320 tỷ m3 (chiếm 37%), tương ứng lượng nước tính bình quân theo đầu người khoảng 3.300 m3, được đánh giá là thấp so với trung bình so với các nước ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, có sự chênh lệch rất lớn theo mùa, mùa mưa tổng lượng mưa chiếm tới 80% lượng mưa năm, 20% còn lại là vào mùa khô; hơn nữa nước lại chủ yếu tập trung tại một số lưu vực sông lớn như sông Hồng - Thái Bình, Đồng Nai, Cả, Ba, Vũ Gia - Thu Bồn.
Theo tính toán, tổng nhu cầu nước hàng năm hiện nay của Việt Nam vào khoảng 67 tỷ m3/năm, dự báo theo kịch bản phát triển bền vững đến năm 2030 sẽ cần khoảng 69 tỷ m3/năm, đến năm 2050 cần khoảng trên 77 tỷ m3/năm, tương ứng lượng thiếu hụt là 8,7 tỷ m3, 10,4 tỷ m3 vào năm 2030 và 12,5 tỷ m3 vào năm 2050.
Với hơn 63% lượng nước chảy từ nước ngoài vào Việt Nam, phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động khai thác, sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn, trong khi nhu cầu khai thác, sử dụng nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng gia tăng kết hợp với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng với các biểu hiện gia tăng các hình thái thời tiết cực đoan như hạn hán, xâm nhập mặn, bão, lũ, ngập lụt, úng... đã, đang và sẽ tạo ra nhiều khó khăn, thách thức đối với việc điều hòa, phân bổ nguồn nước đáp ứng yêu cầu sử dụng nước của các đối tượng sử dụng nước theo mùa, theo vùng và theo lưu vực sông, làm nảy sinh các tranh chấp, xung đột trong khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước, thể hiện ở nhiều cấp độ, hình thức và quy mô khác nhau, từ cấp quốc gia cho đến cấp lưu vực, cấp vùng, địa phương và trong nội tại trong các địa phương và các ngành sử dụng nước.
Đứng trước yêu cầu thực tế nêu trên, để giải quyết các khó khăn về khai thác, sử dụng nguồn nước, Tổng cục Thủy lợi đã và đang tiến hành một số hoạt động sau đây:
Tổ chức rà soát, điều chỉnh và lập mới quy hoạch thủy lợi các lưu vực sông liên tỉnh và quy hoạch hệ thống thủy lợi liên quan từ 2 tỉnh trở lên đến năm 2030, tầm nhìn 2050 có tính đến điều kiện biến đổi khí hậu làm cơ sở để triển khai các hoạt động đầu tư, phân bổ nguồn nước đáp ứng các yêu cầu về sử dụng nước trong thời kỳ quy hoạch;
Tổ chức rà soát, điều chỉnh quy trình vận hành hệ thống các hồ chứa nước, hệ thống công trình thủy lợi đáp ứng tốt hơn khả năng đảm bảo cấp nước cho các đối tượng sử dụng nước;
Tổ chức xây mới, nâng cấp, sửa chữa các hồ chứa thủy lợi; đầu tư xây dựng các công trình chuyển nước, liên kết nguồn nước nhằm tăng khả năng trữ nước, điều tiết nước và điều hòa nguồn nước từ nơi thừa sang nơi thiếu;
Nâng cấp, sửa chữa, hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống công trình thủy lợi hiện có để nâng cao hơn nữa khả năng cấp nước phục vụ phát triển nông nghiệp, dân sinh;
Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong điều tiết, vận hành hệ thống hồ chứa thủy điện để cấp nước cho hạ do trong các thời kỳ thiếu nước, nhu cầu sử dụng nước cao;
Tổ chức triển khai các chương trình khoa học công nghệ và ứng dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước trong sản xuất nông nghiệp nhằm giảm lượng nước sử dụng cho nông nghiệp, gia tăng cơ hội sử dụng nước cho các đối tượng sử dụng nước khác;
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và Chính phủ, Tổng cục Thủy lợi đang tổ chức xây dựng Đề án An ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước với mục tiêu đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, trong đó đề xuất tổng thể các giải pháp như hoàn thiện cơ chế chính sách, đầu tư xây dựng hạ tầng ngành nước; nâng cao hiệu quả sử dụng nước, phòng, chống tác hại và bảo vệ môi trường nước, bảo vệ và phát triển rừng...
PV: Những vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên có nhiều hồ chứa thủy điện, khi hạn hán và thiếu nước như vậy, ngành NN-PTNT cần có biện pháp triển khai và khắc phục ra sao?
Ông Nguyễn Văn Tỉnh - Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi (TCTL): Theo quy định tại Luật Thủy lợi, khi xảy ra hạn hán, thiếu nước thì các hồ chứa thủy điện sẽ thực hiện vận hành phục vụ thủy lợi nhằm đáp ứng yêu cầu sử dụng nước ở hạ du, trong đó ưu tiên cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp. Thực tế, việc phối hợp vận hành các hồ chứa thủy điện phục vụ thủy lợi khi xảy ra hạn hán, thiếu nước đã được thực hiện tương đối hiệu quả thời gian vừa qua.
Các hồ chứa thủy điện hiện có tổng dung tích khoảng 56 tỷ m3, chiếm 86% tổng dung tích các hồ chứa thủy lợi, thủy điện trên cả nước. Như vậy, lượng nước trữ của hồ chứa thuỷ điện chính là nguồn quan trọng trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước, đặc biệt trong trường hợp hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các địa phương đã chỉ đạo các nhà máy thủy điện thực hiện tăng xả qua phát điện nhằm đảm bảo nhu cầu cấp nước thô cho các nhà máy nước sinh hoạt, phục vụ sản xuất nông nghiệp không chỉ cho vùng Trung du Đồng bằng Bắc bộ mà còn ở khu vực Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và cả các vùng khác trong cả nước.
Điển hình, các hồ chứa Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang hằng năm bổ sung nước cho hạ du sông Hồng - Thái Bình từ 2 - 3 đợt, tổng cộng từ 15 - 18 ngày với tổng lượng nước bổ sung khoảng trên 5 tỷ m3 để bảo đảm cung cấp phục vụ gieo cấy cho khoảng 530.000 ha lúa Đông Xuân ở khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ. Ở khu vực Bắc Trung Bộ, các hồ chứa thủy điện cũng cung cấp trong mùa khô trung bình hàng năm khoảng 5,5 - 7,0 tỷ m3 để hỗ trợ tạo nguồn nước cho các hệ thống thủy lợi cấp nước cho khoảng 157.500 ha đất canh tác nông nghiệp ở vùng hạ du và các hồ.
Ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, các hồ chứa thủy điện cung cấp khoảng 3 - 3,5 tỷ m3 hỗ trợ tạo nguồn cho khoảng 130.000 ha. Trong đó, đặc biệt quan trọng các hệ thống chuyển nước từ phát điện nhà máy thủy điện Đa Nhim với lưu lượng trung bình khoảng 12 - 16 m3/s sang lưu vực sông Cái Phan Rang, đã bổ sung nguồn nước tưới thường xuyên cho khoảng 15.000 ha đất canh tác lúa 3 vụ của tỉnh Ninh Thuận; từ hồ thủy điện Đại Ninh về lưu vực sông Lũy - La Ngà với lưu lượng trung bình khoảng 18 m3/s, cung cấp nước cho khoảng 16.000 ha đất canh tác lúa và thanh long của tỉnh Bình Thuận. Đây là nguồn nước rất quan trọng cho các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, thậm chí là nguồn nước duy nhất còn lại của địa phương trong những năm hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng, khi các hồ thủy lợi hầu hết đã cạn nước.
Thực tế, các hồ chứa thủy điện đã có đóng góp quan trọng trong việc bảo đảm nguồn nước phục vụ thủy lợi. Tuy nhiên, việc vận hành các hồ chứa thủy điện nay vẫn còn có một số tồn tại, vướng mắc, như:
Công tác giám sát, vận hành xả phát điện và xả đảm bảo dòng chảy tối thiểu vẫn chưa được thực hiện thường xuyên và liên tục nên một số thời điểm lượng nước không được cung cấp đủ.
Theo quy định pháp luật, việc vận hành hồ thủy điện khi xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn được giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì thực hiện, tuy nhiên khi xảy ra hạn hán, thiếu nước xâm nhập mặn thì một số hồ đã không còn đủ lượng nước trữ để điều tiết.
Việc phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo đã chiếm tỷ trọng lớn hơn về sản lượng điện trên hệ thống điện quốc gia, dẫn đến trong mùa khô, các hồ thuỷ điện đã giảm lượng xả nước do giảm nhu cầu phát điện, quy trình vận hành phát điện theo nhu cầu điện thực tế nên nhiều giai đoạn không phù hợp với nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh.
Để giải quyết các vấn đề này, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có một số giải pháp chính như:
Xây dựng các công trình liên kết giữa công trình thuỷ lợi, thủy điện trên các lưu vực sông để hình thành mạng kết nối nguồn nước với mục tiêu bảo đảm anh ninh nguồn nước, an ninh lương thực và an ninh năng lượng, chú trọng xây dựng công trình trữ, phân phối nước ở hạ du nhà máy thủy điện;
Tăng cường khai thác đa mục tiêu hồ chứa thuỷ điện, giao thêm nhiệm vụ cấp nước trực tiếp sinh hoạt và sản xuất khi có điều kiện thực hiện, bảo đảm tận dụng tối đa nguồn nước từ các hồ chứa thủy điện để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất;
Rà soát, điều chỉnh quy trình vận hành các hồ chứa hợp lý trên nguyên tắc ưu tiên nước phục vụ nhu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, bảo đảm hồ phải luôn có lượng trữ đủ để chủ động phục vụ phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn;
Những nội dung này dự kiến cũng được đề cập trong nội dung Đề án bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan xây dựng, dự kiến trình Chính phủ, Quốc hội trong thời gian sắp tới.
Theo Thanh Thúy
KTĐU