Sự kiện hot
7 năm trước

TS. Võ Trí Thành: 4 vấn đề lớn của sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

TS. Võ Trí Thành cho rằng phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao không chỉ là bài toán lỗ lãi khi kinh doanh, dù rất quan trọng, mà còn là câu chuyện về tái cấu trúc nền nông nghiệp Việt Nam. Điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên như nhà đầu tư, nhà nước, tổ chức nghiên cứu,...

Tiến sĩ Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ (CIEM)

Cho vay nông nghiệp công nghệ cao đạt 32.339 tỷ đồng

Trong hội thảo "Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng nông nghiệp công nghệ cao” diễn ra sáng ngày 4/7, Tiến sĩ Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ (CIEM) nhận định sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là khởi đầu cho cuộc cách mạng cho nền sản xuất nông nghiệp, là nền tảng đáp ứng đòi hỏi mới của người tiêu dùng. Đó không chỉ là bài toán lỗ lãi khi kinh doanh, dù rất quan trọng, mà còn là câu chuyện về tái cấu trúc nền nông nghiệp Việt Nam.

Hiện nay, khu vực nông nghiệp đã thu hút rất nhiều doanh nghiệp, định chế tài chính không chỉ ngân hàng mà cả các quỹ đầu tư. Cùng với đó, là sự hỗ trợ đồng hành của Nhà nước, các nhà khoa học, tổ chức xã hội. Trong đó, vai trò của Nhà nước là loại bỏ rào cản thể chế, khắc phục “thất bại thị trường”, giảm thiểu rủi ro sản xuất, hạn chế phâp phối lợi ích thiếu công bằng.

Đặc biệt, ông cũng chỉ ra bốn vấn đề lớn cần lưu tâm trong việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta hiện nay.

Một là, nguy cơ chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp công nghệ cao không thực chất, mang tính chất “phong trào”. Hậu quả là không tạo được cú hích thực sự, quá trình chuyển đổi thiếu bền vững. Lợi dụng điều đó có thể gây ra méo mó thị trường. Bài học kinh nghiệm cho thấy, người nông dân chưa hẳn đã được hưởng lợi tương xứng từ chính sách hỗ trợ.

Chưa nói sản xuất nông nghiệp công nghệ cao còn cần những lời giải đáp thấu đáo về vấn đề tích tụ đất đai, dịch chuyển lao động, lợi ích trước mắt và lâu dài của người dân. Vì vậy, chúng ta cần làm quyết liệt nhưng phải bài bản và có sự nghiên cứu nghiêm túc. Rất cần tránh sự dẫn lối chính sách mang tính áp đặt.

Thứ hai, có nhiều điểm không thống nhất về sự hỗ trợ của nhà nước như vấn đề nghiên cứu và triển khai, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, đào tạo tay nghề,…Điều quan trọng ở đây là việc đảm bảo minh bạch, tăng cường tiếng nói phản hồi của người dân, lựa chọn ưu tiên nhất là trong bối cảnh nguồn lực nhà nước còn hạn chế.

Thứ ba là câu chuyện xoay quanh chính sách tín dụng hỗ trợ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Có hai câu hỏi đặt ra cần được trả lời: (1) thế nào là sản xuất nông nghiệp công nghệ cao? Tiêu chí nào để xác định được vấn đề trên?; (2) làm sao có được một chính sách tín dụng hỗ trợ hợp lý?

Theo ông, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao có lực kéo cơ bản là tín hiệu thị trường. Tuy nhiên cũng chứa những rủi ro nhất định khi mới ở giai đoạn thử nghiệm. Chính vì vậy, sự hỗ trợ tín dụng (như qua lãi suất) phải được xem là sự chia sẻ rủi ro trong trường hợp không thành công; trái lại nếu đầu tư thành công, doanh nghiệp cần bồi hoàn sự hỗ trợ đó.

Ông cho rằng việc hỗ trợ tín dụng (như qua lãi suất) phải là tiền từ ngân sách. Trước mắt, có thể sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHNN để hỗ trợ. Song như vậy cũng có chừng mực, vì chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tín dụng nói riêng đang chịu nhiều sức ép và “gánh nặng” cho mục tiêu ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế bảo hiểm sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao khi vốn đầu tư lớn và rủi ro cao. Hiện nay, sản phẩm bảo hiểm sản xuất nông nghiệp chưa được ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả. Ông xác định đây là một trong những yếu tố quan trọng để chia sẻ rủi ro cho doanh nghiệp và người nông dân.

Thứ tư là vấn đề về mô hình sản xuất. Dù có thể đa dạng về hình thái song các mô hình phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản. Một là, phải có được lợi thế về quy mô, nhờ đó tạo khả năng tốt hơn trong hấp thụ vốn và công nghệ.

Hai là, phải gắn vào chuỗi giá trị, từ nghiên cứu và phát triển, tạo giống, trồng trọt, thu hoạch, sơ chế/tinh chế đến phân phối tiêu thụ. Có thể không phải mọi công đoạn sẽ được thiết lập đầy đủ ngay từ đầu nhưng bài toán chuỗi giá trị phải được tính toán ngay từ đầu nhằm kết nối các bên liên quan.

Ba là phải gắn bó về mặt kinh tế - xã hội với cuộc sống của người nông dân, tính đến đặc thù vùng miền, dân tộc và đảm bảo khả năng “mặc cả” của người nông dân trong chuỗi.

Diệp Bình
Theo KTTD, Vietnambiz

Từ khóa: