Theo Bộ Công Thương, trong tháng 7, các biện pháp tích cực và đồng bộ đã được triển khai để hỗ trợ sản xuất trong nước, xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường. Kết quả là hoạt động xuất nhập khẩu đã cho thấy những tín hiệu tích cực. Tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 57,21 tỷ USD, tăng 2,5% so với tháng trước.
Tuy nhiên, trong 7 tháng đầu năm 2023, do khó khăn chung của thị trường quốc tế, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 374,23 tỷ USD, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu giảm 10,6% và nhập khẩu giảm 17,1%. Dự kiến cán cân thương mại hàng hóa trong 7 tháng năm 2023 sẽ xuất siêu khoảng 15,23 tỷ USD.
Trong tháng 7, hoạt động xuất khẩu hàng hóa tiếp tục cho thấy tín hiệu tích cực. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 29,68 tỷ USD, tăng 0,8% so với tháng trước. Xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến là động lực chính, đạt 25,12 tỷ USD, chiếm 84,65% tổng giá trị xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu chính như máy vi tính, sản phẩm điện tử, linh kiện, dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ cũng có xu hướng tăng.
Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 7 đạt 27,53 tỷ USD, tăng 4,4% so với tháng trước. Tuy nhiên, tính chung 7 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu giảm 17,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 179,5 tỷ USD. Cán cân thương mại của Việt Nam tiếp tục xuất siêu khoảng 15,23 tỷ USD trong 7 tháng năm 2023, gấp hơn 11 lần so với cùng kỳ năm trước.
Theo Bộ Công Thương, suy giảm trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 7 tháng qua có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân là các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ và EU - những đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam - đã giảm chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ, dẫn đến giảm khối lượng đơn đặt hàng.
Giá hàng hóa xuất khẩu cũng đã giảm trong 7 tháng năm 2023. Một số mặt hàng nông sản như nhân điều, chè, hạt tiêu, và cao su đã giảm giá so với cùng kỳ năm trước (ví dụ: hạt tiêu giảm 28,4%, cao su giảm 20,6%). Ngoài ra, giá xuất khẩu của một số mặt hàng công nghiệp chế biến cũng đã giảm mạnh, ví dụ như dầu thô giảm 25,2%, xăng dầu giảm 16,9%, phân bón giảm 36,2%, chất dẻo giảm 25,2%, xơ và sợi dệt giảm 23%, sắt thép giảm 24,8%...
Thêm vào đó, mở cửa thị trường Trung Quốc đã tạo ra áp lực cạnh tranh đối với các mặt hàng xuất khẩu tương tự của Việt Nam. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó khăn do giảm đơn hàng nước ngoài, thị trường trong nước có sức mua hạn chế, chi phí đầu vào cao và khó tiếp cận tín dụng.
Trong bối cảnh này, Bộ Công Thương đang nỗ lực mạnh mẽ để đẩy mạnh đàm phán và ký kết các hiệp định, cam kết và liên kết thương mại mới. Điều này bao gồm việc hoàn tất việc thực thi Hiệp định Thương mại tự do với Israel, ký kết các Hiệp định Thương mại tự do và thương mại với các đối tác tiềm năng khác như UAE, MERCOSUR để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm và chuỗi cung ứng.
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đang hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định Thương mại tự do, đặc biệt là các Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA, thông qua việc tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, cung cấp thông tin về cơ hội và cách tận dụng cơ hội từ các Hiệp định đó.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đang tiến hành đàm phán với Trung Quốc để mở rộng thêm thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản khác của Việt Nam như bưởi da xanh, dừa tươi, bơ, dứa, vú sữa, chanh, dưa lưới.
Đồng thời, việc nâng cao hiệu quả và tốc độ thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu biên giới giữa Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là đối với các mTheo Bộ Công Thương, suy giảm xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 7 tháng qua có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân là do các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ và EU - những đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam - đã giảm chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ, dẫn đến giảm khối lượng đơn đặt hàng.
Giá hàng hoá xuất khẩu cũng có xu hướng giảm trong 7 tháng năm 2023. Nhiều mặt hàng nông sản như nhân điều, chè, hạt tiêu, và cao su đã giảm giá so với cùng kỳ năm trước (ví dụ: hạt tiêu giảm 28,4%, cao su giảm 20,6%). Đặc biệt, giá xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chế biến cũng giảm mạnh ở mức hai con số, bao gồm dầu thô giảm 25,2%, xăng dầu giảm 16,9%, phân bón giảm 36,2%, chất dẻo nguyên liệu giảm 25,2%, xơ và sợi dệt giảm 23%, sắt thép giảm 24,8%...
Ngoài ra, việc Trung Quốc mở cửa lại cũng tạo ra áp lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam cùng chủng loại. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó khăn do giảm đơn hàng nước ngoài, thị trường trong nước có sức mua hạn chế, chi phí đầu vào cao, và khó tiếp cận tín dụng.
Vì vậy, Bộ Công Thương đang nỗ lực tăng cường đàm phán và ký kết các hiệp định, cam kết, và liên kết thương mại mới. Điều này bao gồm hoàn tất việc thực thi Hiệp định Thương mại tự do với Israel, ký kết các hiệp định thương mại tự do và hiệp định thương mại với các đối tác tiềm năng khác (như UAE, MERCOSUR) nhằm đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, và chuỗi cung ứng.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đang hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là CPTPP, EVFTA, UKVFTA, thông qua việc tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp giấy chứng nhận xuất xứ, cung cấp thông tin về cơ hội và cách tận dụng cơ hội từ các hiệp định đó.
Đồng thời, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương đang đàm phán với Trung Quốc để mở rộng thêm thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng rau quả khác của Việt Nam như bưởi da xanh, dừa tươi, bơ, dứa, vú sữa, chanh, dưa lưới.
Đồng thời, nâng cao hiệu quả và điều tiết tốt tốc độ thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu thuộc biên giới giữa Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản, thủy sản có tính chất thời vụ; chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch.
Tăng cường cảnh báo sớm các vụ kiện phòng vệ thương mại; hướng dẫn doanh nghiệp cách ứng phó với các vụ kiện; kịp thời thông tin cho doanh nghiệp, Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, quy định mới của thị trường.
Bảo An
Theo Kinh tế và đồ uống