ĐS&TD - “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, khai thác cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do nhằm mục tiêu phát triển thị trường xuất khẩu”, đó là chủ đề của Diễn đàn Xúc tiến xuất khẩu Việt Nam 2016 vừa diễn ra tại Hà Nội.
Ngày 14/4, Diễn đàn Xúc tiến xuất khẩu Việt Nam 2016 do Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương tổ chức đã diễn ra tại Hà Nội với sự tham dự của lãnh đạo Bộ Công thương, Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lãnh đạo một số địa phương cùng đông đảo đại diện các doanh nghiệp trong nước, quốc tế, các Hiệp hội ngành hàng…
Cách nhìn lạc quan về hội nhập
Phát biểu khai mạc tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải cho biết, tự do hóa thương mại là một động lực chính của thương mại quốc tế trong nhiều thập niên qua, đặc biệt là ở các nước khu vực châu Á. Theo nhận định của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, Việt Nam là quốc gia rất thành công trong việc tham gia vào quá trình này.
Tính từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (2007) đến nay, tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam đã tăng 2,94 lần, từ mức 111,3 tỷ USD năm 2007 lên mức 327,8 tỷ USD năm 2015. Trong đó, nhập khẩu tăng 2,6 lần và xuất khẩu tăng 3,3 lần, tương ứng với kim ngạch 165,7 và 162,4 tỷ USD vào năm 2015. Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải đánh giá, những kết quả trên chứng tỏ doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt các cơ hội từ hội nhập và tự do hóa thương mại để xuất khẩu hàng hóa.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết, kết thúc đàm phán nhiều Hiệp định thương mại tự do với các đối tác như EU, Hàn Quốc, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á-Âu, v.v... Đồng thời ASEAN đã chính thức là một khu vực thị trường chung với việc tự do hóa lưu chuyển hàng hóa trong khu vực.
Tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, cụ thể: Thông qua các lộ trình cắt giảm, xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, hàng hóa Việt Nam có thể dễ dàng hơn khi thâm nhập vào các thị trường, các quốc gia đối tác trong các FTA, giúp mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào một thị trường.
Đối với những ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước tham gia các FTA làm nguyên liệu đầu vào thì chi phí sản xuất sẽ giảm, tạo sức cạnh tranh về giá cho hàng hóa Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận lợi hơn trong tiếp cận, sử dụng công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu... phong phú hơn với giá thấp hơn, và áp dụng những mô hình, phương thức quản lý mới, từ đó nâng cao sức cạnh tranh. Việc hội nhập kinh tế sâu rộng cũng sẽ giúp thúc đẩy niềm tin vào các nhà đầu tư trong và ngoài nước với môi trường kinh tế của Việt Nam, từ đó thúc đẩy mở rộng đầu tư, gia tăng năng lực sản xuất, xuất khẩu.
Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cũng nhận định, tác động của hội nhập cũng sẽ khác nhau ở các ngành khác nhau, như đối với các ngành có lợi thế so sánh (hàng nội thất, túi xách, da giày, may mặc, một số mặt hàng nông nghiệp...) sẽ được hưởng lợi nhiều hơn; còn những ngành kém lợi thế sẽ chịu thua thiệt ở nhiều mức độ khác nhau. Tương tự, sẽ có những doanh nghiệp có đủ năng lực, sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, có các biện pháp xuất khẩu mạnh mẽ, hiệu quả sẽ đạt được thành công, ngược lại sẽ có nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc cạnh tranh, mở rộng thị trường.
Bên cạnh đó, ngoài một số thuận lợi, các ngành sản xuất của Việt Nam còn một số tồn tại, yếu kém cần phải cải thiện, cũng như đang phải đối diện với nhiều thách thức, khó khăn. Các doanh nghiệp quy mô nhỏ, phân tán, công nghệ sản xuất lạc hậu, năng lực quản lý, kinh doanh còn hạn chế, sức cạnh tranh kém so với các đối thủ quốc tế, chưa tạo dựng được nhiều giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu. Ngoài một số doanh nghiệp tiên phong, vẫn còn những doanh nghiệp chưa thực sự chủ động nắm bắt, tìm hiểu, nghiên cứu thị trường thế giới, chưa đủ tự tin trong việc đầu tư cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu, khai thác thị trường.
Trên thực tế, Bộ Công thương, các Hiệp hội ngành hàng đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm, có sự hỗ trợ về kinh phí của Nhà nước nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn do dự, thiếu sự tự tin để tham gia khai thác cơ hội mở rộng thị trường. Cạnh tranh trong nước sẽ diễn ra gay gắt hơn do nguồn hàng nhập khẩu, cạnh tranh cả về giá và chất lượng do gỡ bỏ mức thuế xuất nhập khẩu, hiện nay một số mức thuế suất giảm trung bình trên 10%. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải đáp ứng các yêu cầu khắc nghiệt về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu để đảm bảo điều kiện thụ hưởng thuế suất ưu đãi,... Đây chính là rào cản chính mà doanh nghiệp xuất khẩu phải vượt qua để đạt được thành công trong xuất khẩu.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho rằng chúng ta cũng cần có một cách nhìn lạc quan, đó là thị trường thế giới rất rộng lớn, có đủ chỗ cho mọi doanh nghiệp có tầm nhìn, quyết tâm hội nhập, có đủ ý chí, bản lĩnh để thay đổi mình nhằm phù hợp với môi trường mới, luật chơi mới. Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp Việt Nam cần có sự chuyển biến về tư duy, chủ động thích ứng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và đặc biệt cần tập trung, nỗ lực cải thiện chất lượng sản phẩm theo thị hiếu và tiêu chuẩn của thị trường xuất khẩu.
Sản phẩm Việt phải mang tính cạnh tranh
Ông Atsusuke KAWADA, Trưởng đại diện JETRO Hanoi cho rằng các doanh nghiệp khi khởi nghiệp tại Việt Nam thì hơn bất cứ điều gì, việc tạo nên được các sản phẩm của Việt Nam có tính cạnh tranh là điều rất quan trọng. Để làm được điều này, thì cần phải giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm của các mặt hàng sản xuất, nâng cao năng suất của hoạt động sản xuất và đào tạo nguồn nhân lực tốt có thể đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất. Ông Atsusuke KAWADA cũng cho rằng, sự hỗ trợ từ Chính phủ Việt Nam cho các hoạt động trên là rất cần thiết nhưng quan trọng hơn là sự nỗ lực từ chính các doanh nghiệp.
Chia sẻ về những nội dung Tập đoàn Dệt may Việt Nam Vinatex chuẩn bị để phát triển xuất khẩu trong thời gian tới, ông Hoàng Vệ Dũng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn cho biết, Tập đoàn đã đẩy mạnh, chuyển từ hình thức gia công sang hình thức FOB, ODM. Trong năm 2015, Tập đoàn (Công ty mẹ) đã triển khai 38 dự án, trong đó có 9 dự án sợi, 10 dự án dệt, 14 dự án may và 5 dự án khác như hạ tầng, trường đào tạo... với tổng mức đầu tư hơn 6 nghìn tỷ đồng. Vinatex đã cố gắng tạo ra các chuỗi đủ lớn trong Tập đoàn với nguồn lực cốt lõi do Tập đoàn chi phối và hình thành trên cơ sở các Tổng công ty, công ty con để từng bước đáp ứng quy tắc xuất xứ từ sợi như trong Hiệp định TPP cũng như quy tắc xuất xứ từ vải trong Hiệp định FTA Việt Nam-EU, v.v...
Theo ông Võ Hoàng An, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Cao su Việt Nam, để đẩy mạnh xuất khẩu, Hiệp hội đã vận dụng các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đã được Cục Xúc tiến thương mại phê duyệt và giao chủ trì thực hiện, thông qua 2 đề án “Mua thông tin thương mại ngành cao su” và “Tổ chức Hội nghị quốc tế về ngành hàng cao su xuất khẩu”. Trong giai đoạn 2011-2015, những đề án xúc tiến thương mại quốc gia đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần cung cấp thông tin thị trường và tạo điều kiện để đẩy mạnh xuất khẩu.
Trước những khó khăn của thị trường thế giới, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cao su Việt Nam cho rằng ngành cao su cần được sự hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương thông qua các chính sách phù hợp để tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu và tiêu thụ. Theo đó, Hiệp hội kiến nghị tiếp tục tăng cường hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động xúc tiến thương mại ngành/quốc gia để mở rộng và đa dạng hóa thị trường, giảm rủi ro do lệ thuộc lớn vào một vài thị trường; tăng cường quản lý chất lượng cao su thiên nhiên và sản phẩm cao su; tháo gỡ vướng mắc về chính sách thuế giá trị gia tăng để tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp; cập nhật và cung cấp thông tin cảnh báo các vụ việc phòng vệ thương mại của các nước; đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu để tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp đảm bảo thời hạn giao hàng và giảm thiểu chi phí, v.v...
Thông qua Diễn đàn Xúc tiến xuất khẩu Việt Nam năm 2016, các chuyên gia đã phân tích, đánh giá một cách sâu sắc về cơ hội cũng như thách thức của việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và tác động tới xuất khẩu của các doanh nghiệp nói riêng, đồng thời các doanh nghiệp cũng đã có những ý kiến trao đổi thẳng thắn, có tính xây dựng trong việc đề xuất các biện pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả xúc tiến xuất khẩu. Qua đó, Bộ Công thương có thể chuẩn bị tốt nhất cho nền kinh tế trước khi các Hiệp định thương mại có hiệu lực chính thức.
Công Minh