Sự kiện hot
7 năm trước

'Vua cá chình' Đông Nam Á thu nhập hàng chục tỷ đồng mỗi năm

Mỗi năm xuất khoảng triệu con cá chình, Ths Hoàng Văn Duật cha đẻ của công nghệ nuôi chình thương phẩm được nhiều người ví von là “vua cá chình" Đông Nam Á, thu nhập hàng chục tỷ đồng năm.

Mạo hiểm với chình sông

Công nhân đang tiến hành phân loại cá chình mỗi 3 tháng/lần. Ảnh: K.A

Ths Hoàng Văn Duật, Giám đốc Trung tâm Tư vấn, sản xuất, dịch vụ và Chuyển giao công nghệ thủy sản trực thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản III, cho biết vào năm 2011 lãnh đạo Viện giao ông và các cộng sự nghiên cứu đối tượng mới sau những công trình tôm sú, tôm thẻ và ốc hương… rất thành công của ông, để giúp người dân phát triển kinh tế.

Vậy là ông bắt đầu rong rủi các nước trong khu vực, từ Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia rồi sang tận Hàn Quốc, Nhật Bản để tìm giống mới phù hợp với điều kiện, khí hậu và môi trường nuôi trồng tại Việt Nam.

Sau những chuyến đi và nghiên cứu tài liệu, ông nhận ra loài cá chình sông tự nhiên tại Việt Nam rất nhiều nếu nuôi thành công có thể đứng thứ 5 – 6 thế giới về sản lượng. Mặt khác, đây là giống thủy sản có giá trị kinh tế rất cao và phù hợp với điều kiện tự nhiên tại Việt Nam.

“Dù có khí hậu khắc nghiệt với mùa Đông dài nhưng các nước nuôi chình hàng đầu thế giới như Hàn Quốc và Trung Quốc vẫn thành công. Nếu Việt Nam tiến hành nuôi cá chình có thể giảm 1/3 chi phí do không dùng nhiệt sưởi ấm vào mùa Đông nên có thể cạnh tranh với nhiều nước trên thế giới.

Cá chình tuy không mới tại nước ta nhưng nuôi qui mô lớn, nuôi công nghiệp vào thời điểm đó chưa có ai làm”, ông Duật phân tích.

Ths Hoàng Văn Duật, người góp công lớn đưa chình sông vào nuôi thâm canh. Ảnh: K.A

Hơn 30 năm gắn bó với thủy sản và thành công với rất nhiều giống đưa vào nuôi dưới dang công nghiệp sạch nhưng với chình sông gần như là con số 0 với ThS Duật.

Từ con giống, thức ăn, đầu ra và kỹ thuật nuôi trồng gần như hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam nhưng “máu nghề nghiệp” khi nhìn thấy tiềm năng của cá chình đã giúp ông vững tin bước tiếp.

“Nghe anh Duật nói về con cá chình, tôi bị cuốn hút ngay. Ngay thời điểm đó, tôi chuẩn bị lấy vợ nhưng anh Duật cần một số anh em có chuyên môn ra nước ngoài học tập mô hình, tôi đã xin vợ sắp cưới hoãn cưới để lên đường đi ngay”, anh Ngô Minh Khang quản lý trang trại chình Vạn Xuân (Suối Cát – Cam Lâm – Khánh Hòa), một cộng sự đắc lực của ông Duật kể lại.

Sau khi cùng các cộng sự “ăn nằm” ở một trang trại chình nước ngoài nhiều tháng liền, ông Duật bắt tay xây dựng trang trại nuôi chình công nghiệp tại Suối Cát.

“Do con giống trong nước chưa quy tụ được số lượng lớn và chúng tôi chưa thực sự nuôi thực tế tại Việt Nam nên thời gian đầu chúng tôi phải nhập giống, thức ăn nước ngoài để nuôi thử nghiệm.

Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn chúng tôi làm dần vững nghề và am hiểu con chình nên mạnh sạng sử dụng giống trong nước do người dân đánh bắt tại các cửa sông ở Phú Yên, Bình Định… rồi nghiên cứu thức ăn công nghiệp để nuôi chình”, ông Duật nhớ lại.

Đem khoa học vào thực tiễn

Mỗi năm trang trại của ông Duật xuất khoảng 1 triệu con giống và thương phẩm. Ảnh: K.A

Mất gần 3 năm “ăn ngủ” với con chình sông, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Nuôi chình thâm canh trong bể xi-măng” của ThS Hoàng Văng Duật và các cộng sự được hội đồng đánh giá cao về tính ứng dụng thực tiễn và cho phép mở rộng sản xuất, cung cấp cho thị trường con giống và chình thương phẩm.

“Đó là một bước tiến dài của các chúng tôi, có những giai đoạn nghĩ lại tôi còn lạnh xương sống vì tất cả đều mới mẻ từ con giống, đầu ra, thức ăn và công nghệ.

Do nuôi công nghiệp đầu tiên trên cả nước nên chúng tôi còn cải tiến hàng chục qui trình phù hợp với khí hậu Việt Nam và hàng trăm vật dụng kỹ thuật để phục vụ công việc”, ông Duật chia sẻ.

Hiện cơ sở của ông mỗi năm cung cấp khoảng 1 triệu con chình giống, chình thương phẩm và chuyển giao công nghệ cho 37 tỉnh thành trên cả nước và một số nước trong khu vực.

Do con giống được sàn lọc kỹ và chăm sóc đúng qui trình nên tỷ lệ hao hụt, kháng bệnh cao và tăng trưởng nhanh đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.

Hiện ông Duật và các cộng sự đang nghiên cứu thức ăn công nghiệp dành cho cá chình. Ảnh: K.A

“Từ con chình bột nhỏ như chân nhang, chúng tôi mua của người dân về phân loại, cách lý và nuôi dưỡng gần 1 năm để ra được chình giống loại 3 khoảng 100g/con để bán cho người dân. Sau một năm nuôi nhốt, chình thương phẩm có thể đạt từ 1,5 – 2kg/con với giá dao động từ 400.000 – 500.000 đồng/kg”, anh Khang cho biết

Để có được con giống chất lượng, ông Duật và cộng sự không ngừng cải tiến qui trình nuôi, từ việc lọc nước, bơm ô-xi nguyên chất dạng lỏng vào bể nuôi đến việc chế biến nguồn thức ăn riêng cho chình là những bước đi mới mẻ nhưng đem lại kết quả tốt.

Hiện ThS Hoàng Văn Duật và các công sự đang bắt tay thực hiện đề tài nghiên cứu cấp nhà nước “Nuôi chình tuần hoàn khép kín”, bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định.

“Hiện cách nuôi khép kín tuần hoàn giúp tăng mật độ nuôi, giảm thiểu chi phí vệ sinh, rút ngắn thời gian nuôi dưỡng và hơn hết có lợi rất nhiều cho môi trường.

Sắp tới chúng tôi sẽ công bố công trình trước hội đồng Khoa học Quốc gia, nếu công trình thành công sẽ tạo được bước đột phá trong ngành công nghiệp nuôi chình”, ông Duật phấn khởi thông tin.

Cá chình hiện có giá khoảng 450.000 đồng/kg. Ảnh: K.A

Trang trại chình Vạn Xuân của ông Duật và các cộng sự hiện áp dụng công nghệ ương, nuôi tiến tiến, hiện đại của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, với hệ thống ương nuôi tuần hoàn khép kín bằng lọc sinh học sử dụng ô-xi lỏng và có sản lượng đầu ra khoảng 1 triệu con/năm cho thu nhập hàng chục tỷ đồng năm.

Trang trại còn được Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) đánh giá là trang trại chình qui mô nhất khu vực.

Ngoài ra, đây còn là nơi tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm của các quốc gia nuôi chình khác khi đến Việt Nam nghiên cứu, tham quan.

Với những gì đạt được, ông được nhiều người gọi là “vua cá chình" Đông Nam Á nhưng ThS Hoàng Văn Duật khiêm tốn: “Tôi xuất thân là nông dân, bây giờ là người nghiên cứu khoa học, với tôi việc đưa một giống mới ngoài thiên nhiên vào nuôi dưới dạng công nghiệp sạch và đem lại hiệu quả kinh tế cho người dân là một sự thành công.

Khi nhìn thấy mô hình mình nghiên cứu thành công và ứng dụng rộng rãi mới là điều hạnh phúc lớn nhất thay vì các danh xưng”.

Khải An
Theo ĐS&PL, Vietnammoi

Từ khóa: