Từ xa xưa, trà đã là một thức uống quen thuộc và phổ biến trong đời sống của người Việt. Không chỉ vậy, trà còn có ý nghĩa đặc biệt trong văn hóa hôn nhân của người Việt.
Trà - Lễ vật quan trọng trong hôn lễ
Trà là một thức uống phổ biến và được yêu thích ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, trà không chỉ là một thức uống mà còn là một nét văn hóa đặc sắc, gắn liền với đời sống tinh thần của người dân. Trong đó, trà còn có một vai trò quan trọng trong hôn lễ, thể hiện những ý nghĩa sâu sắc về văn hóa và phong tục tập quán.
Trong phong tục hôn nhân cổ xưa, việc dùng trà làm quà đính hôn mang một ý nghĩa văn hóa đặc biệt. Khi nam nữ đính hôn hoặc kết hôn, trà là vật trọng yếu không thể thiếu được. Điều này có nguyên nhân sâu xa và nội hàm văn hóa truyền thống.
Bởi vì cây trà kén đất trồng, đôi khi cùng giống trà nhưng chỉ có trồng ở một vùng đất mới ra được loại trà ngon như thế. Hơn nữa, cây trà rất khó di dời, nếu nhổ lên trồng ở nơi khác thì cây sẽ khó sống hoặc không thể cho ra những búp trà ngon. Điều này tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng son sắt, thủy chung, không thay đổi.
Người xưa quan niệm rằng duyên phận vợ chồng là đã định, khi kết hôn là xin Trời đất và cha mẹ hai bên chứng giám, vậy nên nghĩa vợ chồng là không được phép thay đổi, giống như cây trà đã trồng xuống rồi là đến chết cũng không di dời nữa.
Trà tượng trưng cho phúc lành, con đàn cháu đống
Một ý nghĩa khác của việc dùng trà làm sính lễ là vì cây trà có nhiều hạt nên tượng trưng cho phúc lành, ý chỉ con đàn cháu đống, nối dõi phồn thịnh. Cũng bởi vì cây trà bốn mùa quanh năm xanh tươi tốt nên cũng biểu thị cho tình nghĩa vợ chồng nguyên vẹn, sống mãi. Cho nên nam nữ thời xưa kết lương duyên, mong muốn những điều tốt đẹp, may mắn, sẽ lấy trà làm lễ.
Trà lễ: Hình thức quan trọng để xác lập quan hệ hôn nhân
Trà lễ cũng có nhiều cách gọi tùy thuộc vào các bước trong nghi thức hôn lễ. Từ đính hôn đến kết hôn nam nữ cần phải trải qua “tam trà lục lễ”. Khi đính hôn, nhà trai sẽ mang sính lễ đến gọi là Hạ trà, khi cưới thì gọi là Định trà, khi vợ chồng động phòng thì là Hợp trà.
Đặc biệt vào thời nhà Đường, trà lễ rất thịnh hành. Người ta đều gọi đính hôn là “thụ trà” (nhận trà), kết hôn là “ngật trà” (ăn trà), vàng để đính hôn gọi là “trà kim”, lễ vật gọi là “trà lễ”, bái lạy cha mẹ gọi là “bái trà”, “quỵ trà”. Công chúa Văn Thành đời nhà Đường khi được gả cho Tùng Tán Can Bố ở Tây Tạng đã lấy trà và đồ gốm làm của hồi môn. Trà lễ truyền vào Tây Tạng thông qua sự việc này.
“Hảo nữ bất cật lưỡng gia trà”
Cổ nhân có quan niệm: “Hảo nữ bất cật lưỡng gia trà”, tức là người con gái nết na tốt đẹp thì không ăn trà của hai nhà. Khi nhà gái đã tiếp nhận trà, việc hôn nhân đã được định rồi, cô gái coi như đã “ăn trà” của người ta thì không được nhận trà của nhà khác nữa. Nếu nhận sính lễ của một nhà khác nữa thì sẽ bị mọi người coi thường.
Trà trong hôn lễ là một nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt. Trà không chỉ là một lễ vật quý giá, mà còn là biểu tượng cho tình nghĩa vợ chồng son sắt, thủy chung, phúc lành và con đàn cháu đống.
Một số thay đổi trong cách sử dụng trà trong hôn lễ hiện nay
Ngày nay, văn hóa trà trong hôn lễ vẫn còn được lưu giữ và phát triển. Tuy nhiên, có một số thay đổi so với thời xưa:
- Trà không còn là sính lễ chính trong hôn lễ. Ngày nay, trà thường được dùng làm lễ vật trong buổi lễ ăn hỏi, thay cho rượu bia.
- Trà được dùng nhiều hơn trong các nghi thức hôn lễ. Ngoài việc được dùng làm lễ vật, trà còn được dùng trong lễ rước dâu, lễ vu quy, lễ động phòng,...
- Trà được kết hợp với các loại đồ uống khác. Ngoài trà nóng, trà lạnh, trà cũng được kết hợp với các loại đồ uống khác như cà phê, nước trái cây,...
Những thay đổi này không làm mất đi ý nghĩa của trà trong hôn lễ, mà ngược lại, càng làm cho nét đẹp văn hóa này thêm phần đa dạng.
Bảo An
Theo Kinh tế và đồ uống