Cùng với quá trình điều tra của Công an tỉnh Bình Dương, vụ án liên quan đến hành vi chuyển nhượng 43ha đất thực hiện Dự án Tân Phú đang tiếp tục gây chú ý dư luận với những câu hỏi về quản lý hoạt động của doanh nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy...
Câu hỏi về chủ trương của Tỉnh ủy?
Về chủ trương của Tỉnh ủy, tại 2 công văn số 1830 - CV/TU ngày 17/8/2010 và số 447 - CV/TU ngày 29/8/2016 cho thấy, ngay từ năm 2010, Tỉnh ủy đã có chủ trương cho Tổng Công ty Sản xuất - XNK Bình Dương (TCT Bình Dương) được hợp tác liên doanh với Cty Âu Lạc để thành lập liên doanh Cty Tân Phú, trong đó TCT góp 30% vốn. Cty Tân Phú thực hiện dự án tại khu đất 43ha, thuộc khu Liên hợp CN - DV - ĐT Bình Dương có diện tích 563 ha không có nguồn gốc vốn do ngân sách cấp, được giao cho TCT đầu tư.
Hồ sơ vụ việc thể hiện, quá trình thành lập liên doanh Tân Phú, chuyển nhượng 43 ha đất, góp và chuyển nhượng 30% vốn góp, TCT đều báo cáo và được Tỉnh ủy chấp thuận.
Đánh giá việc TCT chuyển nhượng 43ha đất cho Cty Tân Phú và 30% vốn cho Cty Âu Lạc, Tỉnh ủy ra Thông báo khẳng định: “phù hợp với qui định của pháp luật, tình hình thực tế và có lý có tình”.
Như vậy, có thể thấy chủ trương của Tỉnh ủy là cho phép TCT triển khai thực hiện dự án Tân Phú bằng cách thành lập liên doanh, huy động nguồn vốn từ đối tác bên ngoài, khi đủ điều kiện thì bàn giao lại cho đối tác để TCT tập trung vào các dự án lớn khác. Có thể thấy điều này từ qui định tỷ lệ góp vốn của TCT chỉ chiếm 30% tại liên doanh, chấp thuận cho TCT chuyển nhượng 43ha đất và cuối cùng là bán nốt 30% vốn góp cho đối tác. Báo cáo quá trình chuyển nhượng, TCT nêu cụ thể con số lãi hàng trăm tỷ đồng và được Tỉnh ủy đánh giá “phù hợp pháp luật, tình hình thực tế và có lý, có tình”.
Tuy nhiên, sau sự đánh giá kể trên, ngày 10/10/2018, Tỉnh ủy lại bất ngờ ra Thông báo số 512-TB/TU “quyết định thu hồi chủ trương đã cho TCT chuyển nhượng 30% vốn góp tại liên doanh Tân Phú cho Cty Âu Lạc” với lý do, TCT đã không thực hiện việc góp 30% vốn góp bằng tiền mặt.
Việc thu hồi chủ trương kể trên được Chánh Văn phòng Tỉnh ủy phát ngôn: “là chủ trương đúng đắn và thể hiện tính nhất quán” là không thuyết phục. Tỉnh ủy cần có câu trả lời, việc thu hồi chủ trương có phủ định chủ trương, cũng như các kết luận trước đó của Tỉnh ủy hay không? Có cần thiết hay không? Đúng đắn và nhất quán như thế nào?
Câu hỏi về lý do thu hồi chủ trương?
Trước hết nói về bối cảnh Tỉnh ủy quyết định thu hồi chủ trương. Lúc này xuất hiện dư luận “thâu tóm 43 ha đất công” trên nhiều tờ báo, dù từ năm 2014, Sở Tài chính Bình Dương đã có văn bản xác nhận tiền sử dụng đất đã nộp của TCT không có nguồn gốc từ ngân sách và Bộ TN&MT có văn bản khẳng định TCT được quyền chuyển nhượng 43ha đất.
Dư luận kể trên liệu có tác động đến quyết định thu hồi chủ trương của Tỉnh ủy?
Phải đặt câu hỏi như vậy, vì trong Thông báo số 512-TB/TU, Tỉnh ủy Bình Dương ngoài “quyết định thu hồi chủ trương đã cho TCT chuyển nhượng 30% vốn góp tại liên doanh Tân Phú”, còn có nội dung khó hiểu khác là yêu cầu TCT “cung cấp đầy đủ hồ sơ về nguồn vốn đền bù khu đất 43 ha để Sở Tài chính xác định 43 ha đất này là đất công hay không phải đất công”(!?) Khó hiểu là vì ngay từ năm 2007, tại văn bản 410-CV/TU, Tinh ủy đã xác nhận: TCT đã sử dụng nguồn vốn vay không có nguồn gốc từ ngân sách để thanh toán hợp đồng khu đất 563 ha (trong đó có khu đất 43ha). Sau này, vào năm 2014, Sở Tài chính Bình Dương tiếp tục có nhiều văn bản xác nhận tiền sử dụng đất mà TCT đã nộp đối với các khu đất kể trên không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Về lý do thu hồi chủ trương, Thông báo số 512-TB/TU nêu lý do: TCT đã góp 30% vốn không phải bằng tiền mặt mà bằng quyền sử dụng đất. Điều khó hiểu là ngay từ khi thành lập liên doanh đã có thỏa thuận tiên quyết là TCT phải chuyển giao 43ha đất thực hiện dự án cho Cty Tân Phú và việc này đã hoàn tất vào năm 2016. TCT sau đó đã báo cáo Tỉnh ủy và được chấp thuận. Nay nếu chỉ vì “phát hiện” TCT đã không góp 30% bằng tiền mặt, Tỉnh ủy quyết định thu hồi chủ trương thì có lý có tình hay không?
Bởi, thời điểm quyết định thu hồi chủ trương, việc chuyển nhượng 43ha và chuyển nhượng 30% vốn góp đã được Tỉnh ủy và các cơ quan quản lý nhà nước thống nhất đánh giá là “phù hợp pháp luật, tình hình thực tế và có lý có tình”. Bởi, sau khi nhận chuyển nhượng, Cty Âu Lạc trở thành chủ sở hữu 100% vốn của Cty Tân Phú đã chuyển nhượng cho Cty Kim Oanh. Cty Kim Oanh sau khi xem xét cơ sở pháp lý của Dự án Tân Phú, trong đó có hồ sơ giao đất 43ha của Cty Tân Phú, đặc biệt là các văn bản đồng ý về chủ trương của Tỉnh ủy cho phép TCT góp vốn thành lập Cty Tân Phú, cho phép chuyển nhượng 43 ha đất, cho phép chuyển nhượng 30% vốn góp, đã nhận định quyền sử dụng khu đất 43ha của Cty Tân Phú là hợp pháp. Vì thế Kim Oanh đã quyết định mua lại 100% vốn của Cty Âu Lạc tại Cty Tân Phú để tiếp tục đầu tư dự án một cách hợp pháp. Nay Tỉnh ủy thu hồi chủ trương, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ đầu tư mới là Cty Kim Oanh sẽ được giải quyết sao đây?
Câu hỏi về trách nhiệm chỉ đạo, quản lý?
Trong hồ sơ vụ việc, đáng chú ý là ngày 14/8/2018, TCT có văn bản báo cáo gửi Tỉnh ủy và Văn phòng Tỉnh ủy nêu rõ quá trình thành lập liên doanh, góp và chuyển nhượng vốn góp đều tuân theo chủ trương của Tỉnh ủy.
Riêng nội dung chuyển nhượng 43ha đất, báo cáo nêu rất cụ thể: “Ngày 17/8/2010, Tỉnh ủy có Công văn 1830-CV/TU đồng ý chủ trương cho TCT hợp tác với Cty Âu Lạc để thành lập liên doanh đầu tư xây dựng và kinh doanh dự án tại khu đất 43ha thuộc khu đất dịch vụ 567,3 ha của khu liên hợp, trong đó, TCT góp 30% vốn điều lệ. Liên doanh sẽ thực hiện đầu tư kinh doanh dự án khu dân cư tại khu đất 43 ha, giá chuyển giao khu đất được thỏa thuận tại thời điểm này là 570.000 đồng/m2... Ngày 9/9/2010, Cty Tân Phú được thành lập có Giấy chứng nhận doanh nghiệp 3701774462, có vốn điều lệ 200 tỷ đồng, trong đó TCT góp 60 tỷ đồng chiếm 30%, Cty Âu Lạc góp 140 tỷ đồng chiếm 70% vốn điều lệ. TCT và Cty Tân Phú đã làm các thủ tục pháp lý để thực hiện dự án theo Hợp đồng liên doanh. Ngày 8/12/2016, TCT ký Hợp đồng chuyển nhượng khu đất 43ha cho Cty Tân Phú để thực hiện cam kết theo Hợp đồng liên doanh, theo đó giá trị Hợp đồng chưa bao gồm thuế VAT là 250,111 tỷ đồng (gồm giá trị bồi hoàn chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, hạ tầng kết nối là 245,100 tỷ đồng - tương ứng 570.000 đồng/m2 theo Hợp đồng liên doanh)”.
Rõ ràng là báo cáo của TCT đã thể hiện rõ Hợp đồng chuyển nhượng 43ha đất ký năm 2016 là thực hiện cam kết theo Hợp đồng liên doanh ký năm 2010. Giá chuyển nhượng căn cứ vào thời điểm ký kết Hợp đồng liên doanh, cụ thể là 570.000 đồng/m2.
Tuy nhiên, 2 năm sau, chính việc áp giá kể trên lại bị CQĐT Công an Bình Dương kết luận là hành vi có dấu hiệu phạm tội gây thất thoát hơn 126 tỷ đồng.
Như vậy, nếu CQĐT đúng thì Tỉnh ủy không những không phát hiện ra hành vi phạm tội của TCT để kịp thời ngăn chặn, mà ngược lại, ngày 24/8/2018, Tỉnh ủy còn hợp thức hành vi vi phạm bằng Thông báo ghi rõ: “Trong quá trình xem xét các hồ sơ có liên quan, các sở chuyên môn đã chủ động làm việc trước với TCT; tại phiên họp, Lãnh đạo các đơn vị dự họp đều thống nhất đánh giá quá trình chuyển nhượng 43 ha đất và 30% vốn góp tại Cty Tân Phú là phù hợp với qui định của pháp luật, tình hình thực tế và có lý có tình”.
Theo Thông báo kể trên, rõ ràng Tỉnh ủy cùng các cơ quan chức năng (UBND tỉnh, Sở TN&MT, Sở Tài chính, Văn phòng Tỉnh ủy...) đã nghe báo cáo, đã thảo luận, đã “xem xét hồ sơ có liên quan”, “các sở chuyên môn đã làm việc trước với TCT”. Kỹ càng như vậy nhưng lại không phát hiện được hành vi chuyển nhượng 43 ha là vi phạm pháp luật. Ngược lại, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các cơ quan quản lý nhà nước lại thống nhất đánh giá “phù hợp với qui định của pháp luật, tình hình thực tế và có lý, có tình”.
Vì sao lại có thể có đánh giá coi vi phạm pháp luật đến mức phải khởi tố vụ án hình sự là hành vi “phù hợp pháp luật, tình hình thực tế và có lý có tình” của chừng ấy cơ quan chức năng và Tỉnh ủy?
Phải chăng chính vì sự không nhất quán, thiếu trách nhiệm, hay vì lý do gì khác mà sau gần 10 năm thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, dự án Tân Phú được triển khai một cách khó hiểu rồi “đóng băng” một cách bất ngờ bởi một vụ án hình sự?
Trong khi đó, liên quan đến khu đất 145 ha đất mà TCT Bình Dương cũng đang bị CQĐT xác định là có dấu hiệu vi phạm, cho thấy hậu quả sẽ rất nặng nề.
Bởi vậy, cùng với việc phải điều tra, xử lý nghiêm minh kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, điều quan trọng và cần thiết là phải làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có liên quan để lập lại trật tự kỷ cương và rút ra bài học chỉ đạo, quản lý, điều hành hoạt động kinh tế trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Theo Báo TNVN