Cây chè cổ thụ ở Lâm Bình, Tuyên Quang có lá to, dày, màu xanh đậm, sẫm; búp chè to mập mạp, trên mặt lá phủ một lớp lông tơ mỏng giống như tuyết phủ. Thân cây nhuộm màu trắng mốc, to lớn, một người ôm không xuể. Vào mỗi vụ thu hoạch, người dân phải trèo lên cây mới hái được những búp chè xanh ngắt, còn vương đầy bụi trắng.
Từ Hà Nội vượt gần 300km với những cung đường đèo, cua, uốn lượn, chúng tôi tìm về đây để tận hưởng hương vị nguyên bản chè Shan cổ thụ ở huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang. Nơi đây, khí hậu ôn hòa, mát mẻ, cảnh vật nên thơ cùng núi non trùng điệp, hùng vĩ bên sóng nước hồ thủy điện tô điểm cho bức tranh thủy mạc hấp dẫn lòng người.
Cái cảm giác ấm lòng khách đường xa khi chúng tôi mới đặt chân đến Lâm Bình (Tuyên Quang) vào lúc nửa đêm và thưởng thức một ấm chè Shan Khau Mút chính hiệu giữa không gian bảng lảng sương khói, mây mù.
Báu vật giữa đại ngàn miền sơn cước
Tại huyện Lâm Bình (Tuyên Quang) có trên 250 ha chè Shan thuộc địa phận xã Thổ Bình, trong đó có trên 25ha là chè Shan cổ thụ trên 100 tuổi được trồng từ xa xưa. Chè được trồng trên độ cao 700 – 1.000m so với mực nước biển, với mật độ bình quân 2.000 – 2.500 cây/ha.
Những cây chè Shan cổ thụ ở xã Thổ Bình (huyện Lâm Bình, Tuyên Quang) tập trung ở các thôn Bản Phú và thôn Bản Pước. Được nghe những câu chuyện mà các cụ già trong làng kể lại về những cây chè cổ thụ này càng hấp dẫn, mê mẩn và dẫn dụ chúng tôi tìm đến rừng chè cổ thụ nơi đây.
Dẫn đường cho chúng tôi vào thăm những cây chè Shan cổ thụ là anh Trương Phúc Hưng, chủ của Hợp tác xã Chè Phúc Hưng ở thôn Bản Pước, xã Thổ Bình (huyện Lâm Bình, Tuyên Quang). Vừa đi vừa tâm sự, anh Hưng cho biết nhà anh có khoảng 500 m2 chè cổ thụ tít trên cao được các cụ trồng từ xa xưa, cách đây 100 - 200 năm. Bên cạnh đó, từ năm 2007, 2008 khi được Nhà nước cho triển khai trồng chè Khau Mút theo dự án, diện tích trồng mới của gia đình anh là hơn 3 ha chè, thời điểm này anh và bà con đang thu hoạch.
"Ngày trước, từ trung tâm xã Thổ Bình đi lên đến “đại bản doanh” của chè cổ thụ phải mất hơn 3 tiếng leo rừng, nhưng từ khi được Nhà nước đầu tư làm con đường lên khu sản xuất chè Khau Mút, nên việc đi lại dễ dàng hơn, chỉ mất khoảng 40 phút là lên đến nơi rồi. Thời gian tới có thể bà con sẽ hái chè sau đó sẽ về sản xuất tại nhà". Anh Trương Phúc Hưng cho biết.
Tuy nhiên con đường mới này chỉ đi lên đến tầng dưới, nơi vùng trồng chè Khau Mút mới được đầu tư và trồng mới khoảng hơn 10 năm nay, để đi tiếp lên rừng chè cổ thụ, chúng tôi phải băng qua con đồi dốc lởm chởm thêm một đoạn nữa. Giữa đại ngàn rừng xanh, mỗi lá cây, ngọn cỏ nơi đây như được tắm trong mây mù. Lớp lớp các loài cây thân gỗ được khoác lên mình bộ áo rêu phong xanh mướt.
Phăm phăm len lỏi qua những thân chè phủ đầy địa y rêu mốc, chúng tôi dừng lại trước một cây chè với tán cây vươn dài ra hai phía, những cành chè mang dáng dấp của một bonsai khổng lồ, đẹp mê hoặc. Phải ngẩng mỏi cổ mới nhìn thấy hết chiều cao của những thân cây chè đang mọc xen giữa những lớp cây cổ thụ cao vài chục mét.
Dù đã từng nhìn thấy những cây chè Shan cổ thụ ấy trên ảnh, trong phim, nhưng khi tới đây, được áp tay lên lớp địa y phủ mốc thếch trên thân cây chè cổ thụ gân guốc chúng tôi vẫn không khỏi bất ngờ. Xưa nay nói đến cây chè, ai cũng hình dung những đồi chè lúp xúp trên những bình nguyên, không thể tin có những cây chè cao hàng chục mét và thân rộng cả vòng tay ôm như thế này.
Điều thú vị là những cây chè hàng trăm tuổi nơi đây mọc trên núi đá cao không cần chăm sóc, bón phân mà tự tích lũy tinh túy của đất trời. Suốt mùa đông giá lạnh chè không ra búp mà ủ sức để đến mùa xuân bật ra những búp non đầu tiên. Người dân thường chọn ngày có sương mù nhưng không mưa, sáng sớm lên núi hái những búp chè non đem sao theo bí quyết riêng sẽ cho ra những búp chè quăn như lưỡi câu giúp mang lại một thức uống sánh vàng như mật với mùi hương dịu ngọt. Cái hay của chè Shan là khi uống không bị “xoáy”, dù uống chén trà lúc mới tỉnh giấc hay uống khi trưa đói cồn cào. Bởi cái hương, cái vị của chè Shan dịu nhẹ, thơm nồng.
Đứng trên thân cây chè cổ thụ, các cô gái dân tộc dao đỏ, tay thoăn thoắt hái những búp chè cổ thụ một tôm, hai lá vừa chia sẻ với chúng tôi lược sử cả trăm năm trước, cây chè Shan đã bén rễ, gắn bó với đời sống của bà con dân tộc nơi đây. Có những cây chè cổ thụ đã có tuổi đời gần 200 trăm năm. Chè mọc xen lẫn trong rừng sâu, núi cao và xung quanh bản. Nếu như trước đây, cây chè Shan cổ thụ được bà con bản địa thu hái và chế biến bằng hình thức thủ công, sao chè bằng chảo, vò chè bằng chân, quãng đường vận chuyển chè từ trên núi xuống quá lâu khiến chè bị hấp hơi về đến nhà chè bị úng, khi chế biến thành chè khô pha nước uống không còn màu xanh nữa mà chuyển sang màu vàng đục, vị chát. Thì ngày nay đã có các lò chế biến chè được đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại hơn, giao thông thuận tiện hơn, tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, giá bán ra thị trường được cao hơn.
Đánh thức vùng chè cổ thụ
Nhận thức được đây là một vùng nguyên liệu quý, mang lại sinh kế lâu dài với người dân. Năm 2009, xã Thổ Bình đã triển khai hiệu quả chương trình hỗ trợ người dân trồng rừng phòng hộ của tỉnh Tuyên Quang, diện tích chè tăng dần từ 50 ha lên trên 250 ha, mong muốn đưa sản phẩm này thành hàng hóa được chính quyền và những người dân tâm huyết với cây chè hiện thực hóa.
Đến năm 2013, vùng chè Shan xã Thổ Bình được tỉnh Tuyên Quang quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa và được chứng nhận nhãn hiệu từ năm 2017. Chè cho thu hoạch rộ từ tháng 4, tháng 5 và cho thu kéo dài đến tháng 10.
Theo anh Trương Phúc Hưng cho biết, thu nhập từ thu hái búp tươi của bà con nơi đây cũng được khoảng 5 – 6 triệu mỗi tháng, tuy nhiên do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên cũng ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ. Thế nhưng qua quá trình tạo dựng được thương hiệu chè, bà con nơi đây cũng có cơ hội để phát triển so với trước, mỗi năm cho thu nhập cao hơn những năm trước.
Hiện nay, huyện Lâm Bình có 2 Hợp tác xã là Hợp tác xã Đồng Tiến và Hợp tác xã Phúc Hưng đứng ra thu gom chè búp tươi của người dân, có thời điểm công suất chế biến lên đến 200 – 300 kg nguyên liệu/ngày. Mỗi năm, Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ từ 4 đến 5 tấn chè khô bán ra thị trường, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương.
Năm 2020, nhãn hiệu chè Shan Khau Mút được UBND tỉnh Tuyên Quang công nhận OCOP đạt 03 sao, có chứng nhận sử dụng mã vạch, tem truy xuất nguồn gốc và chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Đến nay, sản phẩm chè Shan Khau Mút của xã Thổ Bình đang nhận được nhiều phản hồi tích cực nhờ bảo đảm an toàn thực phẩm do không sử dụng bất kỳ một loại phân bón hay thuốc bảo vệ thực vật nào mà vẫn giữ được hương vị chè Shan đặc trưng.
Cây chè Shan giờ đã trở thành nguồn sinh kế của bà con và là sản phẩm đặc trưng của xã Thổ Bình. Với sự quan tâm đầu tư đúng hướng và những định hướng lâu dài cho một vùng nguyên liệu sạch. Chia sẻ với báo chí, ông Vi Văn Sự, Chủ tịch UBND xã Thổ Bình (huyện Lâm Bình, Tuyên Quang) cho biết, UBND huyện Lâm Bình đã đầu tư xây dựng tuyến đường gần 3,3 km, tổng kinh phí trên 9,4 tỷ đồng lên khu sản xuất chè Khau Mút của xã Thổ Bình. Thay vì đi bộ gần nửa ngày để lên đến vùng chè cổ thụ như trước kia thì giờ đây chỉ mất hơn 1 giờ đồng hồ đi xe máy là lên được vùng chè. Cùng với đó, Hợp tác xã Đồng Tiến cũng đã liên kết với Hợp tác xã Sử Anh (TP Tuyên Quang) và Công ty TNHH MTV Sản xuất và Thương mại Duy Phát (Yên Sơn) để nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường cho sản phẩm chè Shan Khau Mút Thổ Bình. Theo ông Sự, thời gian tới để nâng cao giá trị vùng chè Shan Thổ Bình, huyện đã có định hướng phát triển du lịch khám phá, du lịch trải nghiệm tại vùng chè Shan cổ thụ này.
Ở độ cao nghìn mét, giữa trưa hè, từng đụn mây bỗng dâng lên, chậm rãi rồi dào dạt như khoác lên miền "cổ tích chè" Shan nơi đây một tấm áo kỳ lạ. Giữa lưng chừng núi, các "cụ chè" như muốn đu mình lên giữa bạt ngàn những nương, vườn chè đang được trồng mới. Lẫn trong màu xanh ngút ngát, thấp thoáng bóng dáng những chàng trai, cô gái người dao đỏ, người Tày cõng trên lưng gùi chè tươi vội vã về nhà. Ở trong những cái gùi đó, họ đã cảm nhận rất rõ của sự ấm no - tất cả là nhờ sự hồi sinh của "báu vật" của mình - những cây chè.
Tạ Thành
Theo KTDU