ĐS&TD - Nhà sử học người Anh Joseph Needham đã đánh giá: "Thẩm Quát là nhân vật kiệt xuất nhất trong lịch sử khoa học Trung Quốc". Ông đã dành tâm huyết cả cuộc đời để viết ra "Mộng khê bút đàm" đề cập đến mọi sự vật, sự kiện của xã hội cổ đại Trung Hoa. Ông được suy tôn là “Newton của Trung Quốc”.

Thẩm Quát tên chữ là Tồn Trung, sinh năm 1033 tại Tiền Đường, Hàng Châu, tỉnh Triết Giang trong một gia đình có truyền thống trí thức Nho sĩ. Thẩm Quát từ nhỏ đã cùng với cha là Thẩm Châu bôn ba khắp nơi, hiểu rõ được thông thổ và phong tục tập quán cũng như đời sống nhân dân đương thời. Những sở thích ước muốn cũng vì thế mà phong phú hơn. Từ nhỏ, Thẩm Quát đã tỏ ra yêu thích tự nhiên và rất muốn tìm hiểu các hiện tượng của tự nhiên. Trong nghiên cứu, Thẩm Quát luôn có thái độ "cố chấp" - Luôn muốn tìm hiểu đến ngọn ngành của sự việc. Ông quan niệm “Mọi lý thuyết phải được thực tế chứng minh”.
Giai thoại kể lại, lúc bé một lần đọc thơ đến đoạn “hoa đào ở đồng bằng đã rụng hết nhưng hoa đào ở trên núi mới hé nở”, thấy lạ, Thẩm Quát tự đặt câu hỏi: "Tại sao cũng là hoa đào tháng tư ở vùng đồng bằng thì đã rụng hết rồi, vậy mà hoa đào ở trên núi lại vừa mới nở”", cậu quyết định lên núi để kiểm chứng, quả nhiên có hoa đào nở thật. Đang ngạc nhiên không hiểu vì sao thì một cơn gió mạnh thổi qua, khiến Thẩm Quát cảm thấy lạnh và cậu bỗng hiểu ra “nhiệt độ khác nhau khiến thời gian sinh trưởng của hoa đào cũng sẽ khác nhau”. Đến lúc đó, cậu mới tin những điều viết trong sách là thật.
Với thái độ khoa học cẩn thận, sát thực, Thẩm Quát có được một kiến thức uyên bác trên mọi lĩnh vực: thiên văn địa lý, toán lý hoá, y học và cả văn học nghệ thuật, ở lĩnh vực nào ông cũng đều tinh thông. Trong khi khảo sát tìm tòi một vấn đề gì, ông vẫn dựa vào ý chí sắt đá, khả năng quan sát tỉ mỉ và sức lực dồi dào để giải quyết. Trên đỉnh cao khoa học ông vẫn không ngừng phấn đấu.

Chân dung Thẩm Quát và một trong trang bản thảo của bộ “Mộng Khê bút đàm”
Thẩm Quát chính là người đầu tiên trên thế giới phát minh ra dầu mỏ (mà khi ấy ông gọi là đá dầu). Khi tại châu Âu người ta còn chưa biết đến “dầu mỏ” thì tại Trung Hoa, người dân đã biết dùng dầu để nấu cơm, thắp sáng. Qua nhiều lần tìm tòi, nghiên cứu ông đã hiểu rõ được đặc tính và đã lợi dụng đặc tính của đá dầu để phục vụ cho mục đích sinh hoạt của con người.
Năm 33 tuổi, Thẩm Quát đã đến kinh đô Khai Phong để nghiên cứu thiên văn, lịch pháp. Đây cũng là thời kỳ mà thừa tướng Vương An Thạch đang thực thi cải cách trong kinh tế và giáo dục của triều Bắc Tống. Thẩm Quát được phong chức quan Tư Thiên Giám, chuyên nghiên cứu thiên văn và chế định lịch pháp. Ông đã chế ra “Phụng nguyên lịch” - sử dụng 12 tiết khí để thay thế cho lịch Trung Hoa (âm lịch). Nhưng do định kiến của tầng lớp quan lại và nho sĩ lúc bây giờ nên “ Phụng Nguyên lịch” không được chấp nhận.
Thẩm Quát cũng rất say mê vật lý học. Qua quan sát và thực nghiệm, chiếc kim chỉ Nam đầu tiên của nhân loại do ông sáng chế đã đi trước phương Tây 4 thế kỷ. Ông cũng là nhà khoa học đầu tiên trên thế giới có các công trình về quang học và âm học.
Thẩm Quát cũng hay đi ngao du sơn thủy. Mỗi khi đến một miền đất mới, ông lại nghiên cứu rất tỉ mỉ điều kiện địa chất, khí hậu của vùng đó. Khi khảo sát miền Đông tỉnh Triết Giang, ông đã ghi nhận rằng các đỉnh núi ở đây là do nước chảy bào mòn qua hàng vạn năm hình thành. Khi đi qua chân núi Thái Hàng, thấy trên vách núi có một vỏ ốc hóa thạch, ông phán đoán nơi này khi xưa chính là bờ biển, từ đó ông rút ra kết luận “lục địa là do cát bùn và sinh vật tích tụ mà thành”. Sự lý giải đó của ông khá trùng khợp với kết luận của các nhà khoa học hiện tại.
Về già, ông sống tại điền trang của mình là “Mộng Khê viên” ở Uyên Châu (nay là Trấn Giang). Chính tại đây, ông đã cho ra đời bộ bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử thế giới “Mộng Khê bút đàm”. Trong cuốn sách, Thẩm Quát đã phác thảo quan sát khoa học khác mà bây giờ chúng ta thấy là chính xác. Ví dụ, ông đã cung cấp mô tả đầu tiên về hoạt động một “la bàn từ tính”, ông nghiên cứu và phân tích hóa thạch, ông lập luận chống lại lý thuyết cho rằng thủy triều có liên hệ với mặt trời và xác định mối tương quan với chu kỳ mặt trăng, ông cũng đưa ra giả thuyết rằng mặt trời và mặt trăng có hình cầu chứ không phải là phẳng.

Tượng Thẩm Quát tại quê nhà ông ở Triết Giang
Cuộc đời Thẩm Quát không phải chỉ dành cho nghiên cứu, ông còn đảm đương nhiều trọng trách trong triều đình Bắc Tống. Ông đã từng đi sứ sang nước Liêu, khi xảy ra chiến tranh Liêu - Tống ông đã được giao nhiệm vụ là quân sư chính cho quân Tống. Ngoài việc là quanThái úy phụ trách về tài chính - tiền tệ, Thẩm Quát còn kiêm nhiệm là Đài trưởng đài Thiên văn của nước Tống.
Thẩm Quát qua đời vào năm 1095 tại Trấn Giang nhưng tên tuổi của ông vẫn mãi lưu danh muôn thuở tại Trung Quốc và trên thế giới như một nhà bác học vĩ đại của nhân loại.
Tuấn Kiệt