Sự kiện hot
11 năm trước

Vụ án 175 Nam Kỳ Khởi Nghĩa: Quan tòa quên, hay “bỏ qua” những chứng cứ xác đáng

Thời gian qua Báo Điện tử Xây dựng đã đăng tải hàng loạt bài phản ánh những dấu hiệu bất thường xung quanh vụ án Tranh chấp Quyền sở hữu tài sản (nhà ở) tại 175 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 7, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.


Khu nhà đất 175 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, TP Hồ Chí Minh

Vụ án đã được TAND thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, theo bản án số 558/2014/DS-ST ngày 19/05/2014. Ngay sau khi tuyên án, bà Trần Thị Phương, địa chỉ liên lạc tại: 7B/52 đường Thành Thái, Phường 14, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh đại diện cho nguyên đơn là ông Trương Trọng Hùng, Trương Trọng Dũng và bà chhun Bernadette đang cư trú tại Pháp đã có đơn kháng cáo và cho rằng có nhiều dấu hiệu bất thường trong việc đánh giá chứng cứ, sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến phán quyết không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.

Ngay sau khi loạt bài được đăng tải, Báo Điện tử Xây dựng nhận được rất nhiều quan điểm, ý kiến phản hồi, đóng góp của nhiều chuyên gia nghiên cứu pháp luật đã theo dõi các bài đăng tải về vụ án này.

Để rộng đường dư luận, Báo Điện tử Xây dựng xin chắt lọc một số quan điểm chính để bạn đọc và Tòa án cấp phúc thẩm có cái nhìn khách quan để có một phán quyết khách quan đúng với bản chất của vụ án.


“Tờ tự nguyện chuyển quyền cho mẹ” ngày 19/10/1988

Tòa coi hợp đồng vi phạm điều cấm là hợp pháp?.

Trước tiên phải khẳng định vụ án này được giải quyết ngoài các căn cứ pháp lý của Bộ Luật tố tụng dân sư, Bộ luật dân sự mà còn phải áp dụng Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/06/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/07/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.Tại Điều 3 Nghị quyết ghi rõ: “Mục đích, nội dung của giao dịch dân sự về nhà ở vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Các giao dịch dân sự về nhà ở quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết này có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005”.

Như vậy Văn tự mua bán nhà ngày 20/03/1989 giữa bà quả phụ Trương Khắc Cẩn là đại diện người bán nhà và bà Nguyễn Thị Tư đại diện người mua nhà (bà Tư là bị đơn trong vụ án) đã ký văn tự mua bán vào thời điểm mà Nhà nước Cộng hòa XHCNVN chưa cho phép, nói rõ hơn là vi phạm điều cấm của Nhà nước. Hơn nữa tại Mục “Hai bên mua bán đồng cam kết ghi rõ: “Bên bán giao nhà và bên mua giao đất sau khi việc mua bán được UBND Quận hoặc sở Quản lý Nhà đất thành phố chấp thuận”. Văn tự mua bán nhà này đã được đề trình đến các cấp có thẩm quyền Thành phố.


“Hợp đồng tương thuận” ngày 22/2/1989, được công chứng chứng thực hợp pháp tại phòng công chứng nhà nước TP Hồ Chí Minh. Đến nay chưa có văn bản nào của cả hai bên xin hủy bỏ hợp đồng này

Đến ngày 13/07/1989, Sở Nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành “GIẤY PHÉP ỦY QUYỀN LÝ NHÀ” chỉ đồng ý cho phép bà Trương Khắc Cẩn ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Tư quản lý sử dụng, không mua bán, sang nhượng căn nhà trên. Vậy đến thời điểm này (13/07/1989), Văn tự mua bán nhà lập ngày 20/03/1989 là vô hiệu, không có hiệu lực pháp luật và các bên chưa thể giao tiền và nhận nhà theo đồng cam kết trong văn tự như đã nêu. Nếu các bên tự giáo tiền và nhà là trái với cam kết và vi phạm điều cấm của pháp luật.

Đối chiếu với Điều 3, Nghị Quyết 1037 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và điều 128 Bộ luật dân sự thì văn tự bán nhà này và các giấy ủy quyền tiếp sau đó đều bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Do vậy việc giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu này phải theo điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005: “Giao dịch dân sự không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

Khi giao dich dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận..”


Án sơ thẩm không bác bỏ văn bản này có nghĩa là đã công nhận “Giấy phép ủy quyền quản lý nhà” vẫn còn hiệu lực pháp luật

Án sơ thẩm có vi phạm Luật Đất đai?

Thực tế đã khẳng định rằng tại địa chỉ 175 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 7, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh hiện vẫn còn Bằng khoán điền thổ số 889; Tờ đoạn mãi ngày 23/04/1975, Chưởng kế tại Sài gòn, xác nhận giữa bà Nguyễn Thị Nga, ông Vương Trọng Thìn bán đứt bất động sản tại 175 đường Công Lý cho cậu Trương Trọng Hùng và cậu Trương Trọng Dũng, vị thành niên, được ông Trương Khắc Cẩn là bố đẻ 2 cậu mua cho 2 vị thành niên này. Đến thời điểm này toàn bộ giấy tờ vẫn do bên nguyên đơn giữ và chưa có một văn bản nào của cơ quan chức năng hủy bỏ tính pháp lý của văn bản này. Căn cứ vào Điểm e, khoản 1 điều 50 Luật Đất đai năm 2003 thì đây là giấy tờ hợp pháp đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nguyên đơn có đầy đủ các quyền mà pháp luật cho phép đối với ngôi nhà 175 Nam Kỳ Khởi Nghĩa như đã nêu.


Đơn kháng cáo bản án sơ thẩm số 558/2014/DS-ST của bà Trần Thị Phương

Theo bản án số 558/2014/DS-ST ngày 19/05/2014 lại khẳng định Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở quyền sở hữu đất ở số 4080/2008/GCN, ngày 24/10/2008, do UBND Quận 3 đã cấp cho Bà Nguyễn Thị Tư và ông Nguyễn Bá ( họ là bị đơn trong vụ án) là hợp pháp.

Như vậy tại 1 địa chỉ 175 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 7, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh tồn tại 2 Giấy chứng nhận cho 2 chủ thể khác nhau mà đều là hợp pháp thì đây có phải là vi phạm Luật Đất đai?

Báo Điện tử Xây dựng tiếp tục thông tin về vụ việc trên.

Bảo Tường – Đặng Quang
theo Xây dựng

Từ khóa: