Sự kiện hot
13 năm trước

Sự thật về cái chết của “hùm thiêng Yên Thế” và đôi gươm thần: Tang trắng trời Nhã Nam

Dantin - Cách đây tròn 100 năm, ngày 10/2/1913, Hoàng Hoa Thám hay còn được gọi là Đề Thám với mệnh danh “hùm thiêng Yên Thế”, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân bị ám sát. Cùng với cái chết của ông, cuộc kháng chiến hơn 30 năm theo tiếng gọi Cần Vương của vua Hàm Nghi hoàn toàn chấm dứt.

Dantin - Cách đây tròn 100 năm, ngày 10/2/1913, Hoàng Hoa Thám hay còn được gọi là Đề Thám với mệnh danh “hùm thiêng Yên Thế”, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân bị ám sát. Cùng với cái chết của ông, cuộc kháng chiến hơn 30 năm theo tiếng gọi Cần Vương của vua Hàm Nghi hoàn toàn chấm dứt.

Cuối tháng 12/2012, được sự trợ giúp của các đồng nghiệp tại TP Melboume, Australia chúng tôi có được cuốn hồi ký của viên Đại tá người Pháp Chofflet, người đã nhiều lần đem quân tấn công đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế và nhận chiếc đầu của Đề Thám. Tuy cuốn hồi ký còn có nhiều điều tâm linh, một số điều chưa thể xác thực nhưng có nhiều giá trị thông tin mới, quý báu về cái chết của “hùm thiêng Yên Thế” cùng với đôi gươm báu của ông.

PV Đời sống &Tiêu dùng đã tìm hiểu thêm nhiều thông tin bên lề khác để có một cái nhìn toàn diện hơn. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả!

Hơn 200 lính Pháp trúng độc trong vụ Hà thành đầu độc ngày 27/6/1908 do Hoàng Hoa Thám tổ chức đã khiến thống sứ Bắc Kỳ Jules Simoni (thời kỳ 1907-1909) và kế nhiệm là Léon Louis Jean Georges Destenay (1909-1915) ăn không ngon, ngủ không yên. Hơn thế nữa, cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã gần 30 năm không thể dập tắt khiến chính phủ Pháp ở mẫu quốc nghi ngờ khả năng cai trị của hai viên thống sứ. Hai vị toàn quyền Đông Dương Klobukowsky và Albert Sarraut (nhiệm kỳ tương ứng) cũng cuống cuồng khi nghĩ đến cái tên Đề Thám. Cực chẳng đã, thống sứ Bắc Kỳ treo thưởng 25.000 đồng Đông Dương cho cái đầu của Đề Thám mà chưa thể nào lấy được và chưa ai làm được. Những toan tính, những mưu mô được cài sẵn, trùng trùng bủa vây quyết giết bằng được “hùm thiêng Yên Thế”.

Cuộc truy bắt nghẹt thở

Nhã Nam (Tân Yên, Bắc Giang), chiều cuối đông năm 1911. Đồn lính Pháp rầm rập những bước chân của các quan ba, quan tư và lính tuyển đến tăng cường cho cuộc truy bắt Đề Thám và những lãnh tụ nghĩa quân Yên Thế. Bà Ba Cẩn người vợ, cánh tay phải đắc lực của Đề Thám đã bị bắt cùng với Cả Trọng, Cả Huỳnh, Cả Tuyển …khiến nghĩa quân Yên Thế dần tan rã. Chỉ duy có điều, chưa bắt được Đề Thám nên lính Pháp trú tại đồn Nhã Nam chưa thể ngủ ngon.

Trong phòng, khói thuốc lá mù mịt. Đại tá Bouchet, người chỉ huy cuộc lùng bắt Đề Thám đi lại như người khó ở. Không phải Bouchet buồn bực vì cuộc đi săn không thành ở Yên Lệ (cách không xa Nhã Nam) mà hắn nhận được tin báo Đề Thám đang lẩn trốn ở mỏm 28 trong rừng. Một cuộc truy bắt lại được tổ chức bởi trước đó năm lần, bảy lượt Đề Thám đều trốn thoát khỏi trung vây.

Một đại binh được điều đến bao vây cả khu rừng dưới sự chỉ huy của giám binh Guillaume. Từ Mỏ Trạng, Richy cũng kéo quân đến tiếp viện.

Cuộc truy bắt được nhà nghiên cứu – nhà văn Lê Minh Quốc viết trong cuốn “Tướng quân Hoàng Hoa Thám” mà mọi người gọi là “văn sử bất phân” miêu tả: “ Đạn đã lên nòng. Vòng vây đang siết chặt. Trời âm u. Những bước chân di động với trái tim phập phồng âu lo trong lồng ngực. Bỗng chúng nghe ba tiếng súng nổ đanh và gọn. Ba tên lính tiên phong đi đầu ngã gục. Cả khu rừng lại âm u yên tĩnh. Không một ai dám tiến công nữa. Cả khu rừng bị tưới xăng để đốt cháy. Lửa cháy ngút ngàn. Thêm một phát súng nữa, một tên ngã chết và tất cả bỏ chạy tán loạn. Bọn chúng thoáng thấy Đề Thám mặc áo kaki như lính khố xanh đang vụt khỏi vòng vây. Chúng nã đạn đuổi theo. Nhưng bất lực” Đề Thám lại trốn thoát!

Chân dung Hoàng Hoa Thám

Thắng thua không thể luận anh hùng

Phủ Toàn quyền Pháp tại Đông Dương và phủ thống sứ Bắc Kỳ lại tiếp tục thất vọng vì nhận được tin Đề Thám đã chạy tới Bằng Cục, một vùng đất đầy núi rừng sẽ che chở cho “hùm thiêng Yên Thế”.

Nhiều tin đồn xôn xao trong dư luận. Tờ báo Journal des Officiers của Pháp loan tin là Đề Thám còn có 20 tay súng thiện chiến cố thủ trong chốn thâm sơn. Chỉ huy quân Pháp ở Nhã Nam, Bouchet được gọi về Hà Nội. Toàn quyền Sarraut đã gặp hắn rồi chỉ thị: “Từ những cuộc phiến loạn của Đề Thám đã cho chúng ta một kinh nghiệm xương máu. Đó là không nên huy động một lực lượng quân sự ồ ạt tấn công một nhóm nghĩa quân lẻ tẻ trong rừng. Trong trường hợp này chỉ cần canh chừng Đề Thám là đủ”. Đồng thời cả viên toàn quyền và Bouchet đều cho rằng Đề Thám chỉ còn một lực lượng quá mỏng không thể không dựa vào Lương Tam Kỳ (một thủ hạ cũ của tướng quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc). Một mưu sâu kế hiểm đã được bày sẵn quyết bắt bằng được “hùm thiêng Yên Thế”.

Vào đầu tháng 1/1913, ba thủ hạ thân tín của cha con Lương Tam Kỳ đến Yên Thế. Một người tên là Tsan Tac Ky, 51 tuổi, người thứ hai, 37 tuổi tên là Ly Song Wa và người thứ ba tên Tsan Fong San, 28 tuổi. Chúng tự xưng là đồ đảng trung thành của Lương Tú Xuân(người lãnh đạo phong trào phản Thanh phục Minh) từ Quảng Tây, Trung Quốc đến. Chúng xin theo hầu Đề Thám, được Đề Thám đồng ý vì Lương Tú Xuân là bạn quen biết rất thân của ông . Chúng nói biết cách chế tạo bom có sức công phá lớn giúp Đề Thám chống Pháp nên ông cho theo, dù vẫn chưa tin hẳn chúng. Ba tuần đi theo hầu Đề Thám, chúng tìm mọi cách hạ sát Đề Thám nhưng không thành. Ban đêm Đề Thám luôn thay đổi chỗ ngủ. Ông thường nằm trong túp lều tranh. Giường là những thanh tre xếp lại. Phía tay phải, vừa tầm tay với là ba khẩu súng Lebel và hai cái cuốc. Còn hai người nghĩa quân thân tín thì nằm ngoài lều canh phòng mọi sự bất trắc. Bám theo Đề Thám nhiều ngày nhưng chúng vẫn chưa có dịp ra tay.

Đại gia đình Đề Thám trước khi cuộc khởi nghĩa tan rã

Đêm khuya ngày 9/2 rạng ráng 10/2/ 1913, trời mưa như trút nước. Đợi đến lúc hai nghĩa quân Yên Thế bảo vệ Đề Thám và Đề Thám đang thiu thiu ngủ thì ba tên lẻn vào. Chiếc cuốc mà Đề Thám để kế bên chính là vật mà ba tên gian tế dùng để hạ sát ông. Chúng nhanh chóng cắt đầu Đề Thám rồi lên ngựa, cắt rừng phóng như bay về Chợ Chu để gặp Lương Tam Kỳ. Lập tức Lương Tam Kỳ bỏ chiếc đầu lâu vào túi nải, lên đường gặp Bouchet. Tại đồn Nhã Nam, Bouchet nhìn chòng chọc vào chiếc đầu Đề Thám. “Hùm thiêng Yên Thế” đây ư? Trước mắt của hắn là một khẩu súng Lebel, hai khẩu mousqueton, 183 viên đạn và cái đầu của Đề Thám. Hắn cho viên quan một Richy dẫn một toán lính đi kiểm tra lại địa điểm đã giết Đề Thám. Đó là Hố Lẩy trong rừng Tổ Cú, cách Chợ Gồ 2 cây số.

Đầu của “hùm thiêng Yên Thế” được bêu trước đồn Nhã Nam để thông báo cho dân bản xứ là Đề Thám đã chết. Ngày Đề Thám bị hạ sát là ngày mùng 5 tháng Giêng năm Quý Sửu. Người dân cả một vùng rộng lớn từ xứ Hà Bắc cũ lên đến Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Hà Nội nghe tin mà bàng hoàng. Các cụ già ở Nhã Nam vẫn kể cho con cháu đời sau nghe một chuyện: Hôm ấy mưa xuân mà tầm tã cả ngày. Nhiều người dân không dám khóc vì sợ quan Pháp bắt bỏ tù, chỉ biết đóng cửa rồi khóc thầm với nhau. Đến sáng hôm sau, nhiều người không nhìn thấy gì nữa vì đã khóc mù cả mắt. Người ta cũng kể rằng người Nhã Nam sau đó không sợ Pháp nữa. Người ta để tang Đề Thám trắng trời Nhã Nam.Chuyện xưa kể lại chẳng thể chứng thực đúng sai nhưng cái chết của “hùm thiêng Yên Thế” quả như nhà văn Lê Minh Quốc nói: “Sống chết cốt sao toàn tiết nghĩa/Hơn thua chi sá luận anh hùng”.

Minh họa Hoàng Hoa Thám – hùm thiêng Yên Thế

Ngày 11/2/1913 lập tức báo Tương lai xứ Bắc Kỳ đã có bài “Đề Thám chết rồi chăng?” của phóng viên Bonnafont ký bút danh “Le nhà quê” với những dòng đưa tin dè dặt: “Trong lúc đang in báo, chúng tôi được tin trong một trận đánh nhau, Đề Thám có lẽ bị bọn cải lương Trung Hoa (Re1formistes Chinois) giết sáng nay trong vùng Nhã Nam. Mong rằng tin nầy sẽ được chứng thực ngày mai”. Ngày 12/2 báo Tương lai xứ Bắc Kỳ  đăng tiếp, có đoạn: “Thế là cái tin báo Tương lai xứ Bắc Kỳ đăng hôm qua đã được chứng thực! Than ôi là một kỷ niệm đẫm máu!”.

Theo những thông tin chính thống của “Lịch sử Việt Nam cận đại” thì Hoàng Hoa Thám hồi còn bé tên là Trương Văn Nghĩa, quê ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, sau di cư lên Sơn Tây (Hà Tây cũ), rồi đếnYên Thế (Bắc Giang). Cha ông là Trương Văn Thận và mẹ là Lương Thị Minh. Cả cha mẹ ông đều là những người rất trọng nghĩa khí và gia nhập cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Nhàn, Nông Văn Vân ở Sơn Tây. Năm 16 tuổi, Hoàng Hoa Thám tham gia khởi nghĩa của Đại Trận (1870-1875). Khi Pháp chiếm Bắc Ninh (tháng 3 năm 1884), Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh Bắc Ninh. Năm 1885, ông tham gia khởi nghĩa của Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) ở Lạng Giang(1882-1888). Sau khi Cai Kinh chết, ông đứng dưới cờ của nghĩa quân Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một tướng lĩnh có tài. Tháng 4 năm 1892, Đề Nắm bị thủ hạ Đề Sặt sát hại và Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế. Đề Thám tiếp tục hoạt động, lập căn cứ ở Yên Thế và trở thành thủ lĩnh danh tiếng nhất của phong trào nông dân chống Pháp

Đình Tú thực hiện và lược ghi

Từ khóa: